DANH MỤC TÀI LIỆU
Bài thảo luận: Cơ sở lý thuyết và thước đo nghèo khổ tại Việt Nam (2000-2014)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BỘ MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN
BÀI THẢO LUẬN
Đề tài : Đánh giá giảm nghèo việt nam giai đoạn
(2000-2014)
Lớp kinh tế phát triển 1(114)-1
Thành viên nhóm :
Kim Nhật Thành ( trưởng nhóm )
Trịnh Đức Tình
Nguyễn Xuân Lưu
Quách Hải Sơn
Hà Văn Luận
Prach Pherom
Chương I : Cơ sở lý thuyết
1 - Về nghèo khổ
1.1 - Khái niệm
Phạm trù nghèo khổ thể hiểu theo những khía cạnh khác nhau. Nếu theo
nghĩa hẹp thì nghèo khổ được hiểu sự thiếu thốn các điều khiện thiết yếu của
cuộc sống. Tuy vậy, nghèo khổ cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn từ khía cạnh về
phát triển toàn diện con người, tức là nghèo khổ xét theo góc độ là việc loại bỏ các
hội sự lựa chọn bản nhát cho sự phát triển toàn diện con người. Đối với
các nhà hoạch định chính sách, sự nghèo khổ về khả năng lựa chọn hội phát
triển ý nghĩa hơn nghèo khổ về thu nhập, bởi điều đó phản ánh nguyên nhân
của nghèo khổ vật chất và trực tiếp ảnh hưởng đến chiến lược hành động nhằm cải
thiện các cơ hội cho mọi người. Việc nhận thức sự thiếu thốn về khả năng lựa chọn
hội gợi ý rằng cần phải giải quyết vấn đề nghèo khổ không chỉ khía cạnh
thu nhập.
* Nghèo khổ vật chất: hiện tượng một người hoặc một nhóm người không
được hoặc ko đủ khả năng thỏa mãn nhu cầu tối thiểu về vật chất cho sự phát triển
của con người.
Nhu cầu vật chất tối thiểu: theo mức xã hội chấp nhận và tùy thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế - xã hội và phong tục tập quán của đất nước.
* Nghèo khổ con người (nghèo khổ tổng hợp, nghèo khổ đa chiều): hiện
tượng một người hoặc một nhóm người không được hoặc không khả năng thỏa
mãn nhu cầu bản cho sự phát triển của con người. Khác với quan niệm nghèo
khổ vật chất, nghèo khổ con người đề cập đến sự phủ nhận các hội sự lựa
chọn để đảm bảo một cuộc sống cơ bản nhất hoặc “có thể chấp nhận được”.
1.2 - Các thước đo nghèo khổ
a) Các chỉ tiêu đo nghèo khổ vật chất
Mức tỷ lệ nghèo khổ (chỉ số tỷ lệ đếm đầu): đây tiêu chí phản ánh nhất,
tổng quát nhất tình trạng nghèo khổ cũng phương pháp đo lường đơn giản
nhất. Mức nghèo khổ (chỉ số đếm đầu - HC) được xác định trên sở đếm đầu
những người sông dưới chuẩn nghèo, tức những nhân hoặc hgia đình (i)
mức thu nhập (yi) dưới mức chỉ tiêu tối thiểu (C). Còn tỷ lệ đếm đầu (HCR) sẽ là:
HCR = HC/n, trong đó n là tổng dân số
Về mặt ý nghĩa phản ánh, chỉ tiêu trên cho chúng ta kết luận về quy mô, phạm vi
nghèo khổ trong sự so sánh với tổng dân số của quốc gia hay địa phương. Tuy vậy,
trên thực tê, tình trạng nghèo khổ lại cùng đa dạng. Cùng những người sống
dưới ngưỡng nghèo, nhung những người nằm ngay sát chuẩn nghèo, những
người nằm dưới chuẩn nghèo rất xa, hay tỷ lệ người sống tại các điểm dưới chuẩn
nghèo cũng không giống nhau. Do đó nếu dùng chỉ stỷ lệ đếm đầu sẽ không
đưa ra những chính sách thích hợp đối với từng nhóm người với các mức độ nghèo
khổ vật chất khác nhau, nó thể theo hướng có lợi đối với những người sồng gần
chuẩn nghèo lại không thuận cho những người múc sống thấp hơn nhiều so
với chuẩn nghèo , mà đây mới là những đối tượng cần sự hỗ trợ nhiều hơn. Vì vậy,
cần phải bổ sung thêm công cụ đo lường khác đầy đủ hơn.
Tỷ số khoảng cách nghèo tỷ số khoảng cách thu nhập. Đây một công cụ
đo lường nhằm phần nào đắp được sự thiên lệch nói trên, tác dụng xem xét
mữ độ trầm trọng của nghèo khổ. Tỷ số khoảng cách nghèo được định nghĩa là tỷ
lệ giữa thu nhập trung bình cần thiết để tất cả người nghèo đạt chuẩn nghèo chia
cho thu nhập trung bình toàn hội. Tỷ số khoảng cách nghèo (PGR) được tính
theo công thức:
PGR = Ʃ(C - yi)/n×m
Trong đó m thu nhập trung bình của toàn hội i chỉ tính đối với những
người có thu nhập (yi) < C
Tỷ số khoảng cách nghèo phản ánh hai ý nghĩa: (i) đo lường mức độ trầm trọng
của tình trạng nghèo khổ vật chất so với thu nhập toàn hội. Nếu PGR càng lớn
thì mức độ trầm trọng của nghèo khổ vật chất càng cao; (ii) cho phép đo lường
được nguồn lực cần thiết để xóa bỏ nghèo đói. Tử scủa công thức trên chính
khoảng chênh lệch giữa chi tiêu cần thu nhập hiện đối với những người
nghèo (gọi khoảng cách thu nhập của người nghèo đến chuẩn nghèo) đó
chính lượng tài chính cần để thực hiện mục tiêu xóa nghèo. Chính phủ, căn
cứ vào khả năng nguồn lực trong nước nguồn viện trợ quốc tế, sxác định mục
tiêu chiến lược giảm nghèo trong từng giai đoạn những chính sách thiết thực
nhất để thực hiện chiến lược xóa đói giảm nghèo. Tuy vậy hạn chế của chi tiêu này
chỗ, chũng ta đem so sánh khoảng cách thu nhập của người nghèo đến chuẩn
nghèo với mức thu nhập trung bình toàn xã hội. Trên thực tế, nếu một nước có tỷ lệ
nghèo đếm đầu cao nhưng thu nhập bình quân toàn hội lại thấp thì PGR vẫn rất
nhỏ, như vậy sẽ phản ánh không chính xác tình trạng nghèo. Khắc phục
nhược điểm đó chúng ta không chia khoảng cách thu nhập của người nghèo đến
chuẩn nghèo cho thu nhập trung bình toàn hội mà chia cho tổng thu nhập cần
thiết để cho tất cả mọi người đạt tới chuẩn nghèo, con số nhận được gọi tỷ lệ
khoảng cách thu nhập (IGR), công thức tính:
(IGR) = Ʃ(C - yi)/C×HC
Trong đó HC số đầu người (hoặc hộ nghèo), i chỉ chỉ tính đối với những
người có thu nhập (yi)<C
Tỷ lệ khoảng cách thu nhập tính toán theo công thức trên phản ánh mức độ gay
gắt của nghèo đóibởi vì nó đo lường thu nhập cần thiết để xóa bỏ đối nghèo.
b) Đo lường nghèo khổ đa chiều
- Chỉ số nghèo khổ con người (HPI - Human Poverty Index). Đây chỉ số lần đầu
tiên được đưa ra trong Báo cáo phát triển con người năm 1997 nhằm gắng tập
hợp các đặc tính khác nhau về khía cạnh chất lượng cuộc sống con người vào trong
một chỉ số tổng hợp để tiến tới một sự dánh giá tổng hợp về mức độ nghèo khổ của
một cộng đồng.
HPI tập trung phản ánh sự bần cùng ba khía cạnh thiết yếu của cuộc sống
con người đã được đề cập đến trong HDI, đó là: tuổi thoh, giáo dục chất lượng
cuộc sống. Yếu tố đầu liên quan đến khả năng sống: khả năng bị tử vong độ tuổi
tương đối trẻ do sự thiếu thốn, thể hiện trong HPI % số người khả năng sẽ
chết trước tuổi 40. Khía cạnh thứ hai liên quan đến trình độ tri thức: bị tách khỏi
thế giới giao tiếp đọc viết, đo bằng tlệ phần trăm người lớn bị chữ. Khía
cạnh thứ ba liên quan đến chất lượng sống, đặc biệt sphân chia kinh tế nói
chung, điều này phản ánh trong HPI bằng cách tổng hợp ba yếu tố: tỉ lệ phần trăm
số người không được tiếp cận với dịch vụ sức khỏe, nước sạch tỉ lệ phân trăm
trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng.
- Chỉ số nghèo khổ tổng hợp (MPI - Multidimensional Poverty Index). Chỉ số này
được đưa ra trong Báo cáo phát triển con người năm 2010. Về bản ý nghĩa
các tiêu chí cấu thành chỉ số nghèo khổ tổng hợp mới vẫn không thay đổi, tức là nó
phản ánh mức độ thiếu hụt của mỗi nhân theo ba phương diện: sức khỏe, giáo
dục và chất lượng cuộc sống. Tuy vậy, chỉ số này có hoàn thiện hơn về nội dung và
cách tính toán. Các yếu tố cấu thành mỗi tiêu chí có hoàn thiện theo hướng đưa vào
nhiều nội dung hơn, cụ thể, bao gồm mười thành phần tương ứng với ba phương
diện. Phương diện sức khỏe, bao gồm hai thành phần: tình trạng suy dinh dưỡng và
chết yểu; phương diện giáo dục gồm hai thành phần tình trạng không học hết
năm năm trẻ em không được đến trường; phương diện chất lượng cuộc sống,
bao gồm 6 thành phần: tình trạng không được sử dụng điện, nước sạch, nhà vệ
sinh, nhà cửa tồi tàn, sử dụng nguyên liệu đun nấu bẩn, và không có phương tiện đi
lại tối thiểu. Các kết quả thành phần nhận được thông qua việc thực hiện các cuộc
điều tra mẫu các hộ gia đình, từng thành viên trong mỗi họ gia đình trong mẫu đều
được điều tra.
Tính hữu ích của HPI may MPI hiện nay đã được khẳng định trên góc độ
hoạch định chính sách của nhà nước của các nước đang phát triển:
+) HPI,MPI cung cấp một sđo lường về nghèo khổ nhân văn của một quốc gia,
cho phép các nước xác định được tại thời điểm tính toán, tình trạng nghèo khổ
xét theo khía cạnh nhân văn mức độ như thế nào, bao nhiêu phần trăm dân số
(theo tính toán này kết quả nhận được từ 0% đến 100%) phải đối mặt với sự nghèo
khổ theo góc độ phát triển con người?nếu HPI,MPI càng lớn chứng tỏ nguy
nghèo khổ con người càng cao. dHPI nhận được 25%, điều đó nghĩa
trung bình 25% dân số của quốc gia này phải đối mặt với sự thiếu thốn, họ phải
mất đi nhiều quyền tối thiểu trong cuốc sống của họ. Dựa vào những con số này,
nhà nước sẽ tìm ra các phương sách để làm thế nào lấy lại những gì người nghèo bị
tước đoạt mất trong cuộc sống.
+) công cụ lập kế hoạch trong việc xác đinh các khu vực nghèo khổ nhất trong
phạm vi một quốc gia. HPI,MPI thể được sử dụng đxác định những yếu tố bị
tác động nhiều nhất đến sự nghèo khổ. Chúng ta thể nhận biết được sự nghèo
khổ cong người qua các chỉ số rời rạc, như tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ suy dinh dưỡng, tỷ lệ
nghèo khổ thu nhập v.v... Nhưng HPI,MPI giúp cho việc phân hạng trên phạm vi
tổng hợp các khía cạnh bản để tđó đề cập đến các mục tiêu giảm nghèo đói
tổng hợp, toàn diện hơn, cũng như tập trung được vào các trọng điểm ưu tiên đúng
hơn.
+) công cụ nghiên cứu hữu hiệu. HPI,MPI cũng giống như HDI được sử dụng,
đặc biệt khi người làm công tác nghiên cứu muốn những chỉ số tổng hợp về
thông tin tài liệu
Phạm trù nghèo khổ có thể hiểu theo những khía cạnh khác nhau. Nếu theo nghĩa hẹp thì nghèo khổ được hiểu là sự thiếu thốn các điều khiện thiết yếu của cuộc sống. Tuy vậy, nghèo khổ cần được hiểu theo nghĩa rộng hơn từ khía cạnh về phát triển toàn diện con người, tức là nghèo khổ xét theo góc độ là việc loại bỏ các cơ hội và sự lựa chọn cơ bản nhát cho sự phát triển toàn diện con người. Đối với các nhà hoạch định chính sách, sự nghèo khổ về khả năng lựa chọn và cơ hội phát triển có ý nghĩa hơn nghèo khổ về thu nhập, bởi vì điều đó phản ánh nguyên nhân của nghèo khổ vật chất và trực tiếp ảnh hưởng đến chiến lược hành động nhằm cải thiện các cơ hội cho mọi người. Việc nhận thức sự thiếu thốn về khả năng lựa chọn và cơ hội gợi ý rằng cần phải giải quyết vấn đề nghèo khổ không chỉ ở khía cạnh thu nhập.
Mở rộng để xem thêm
tài liệu giúp tôi
Nếu bạn không tìm thấy tài liệu mình cần có thể gửi yêu cầu ở đây để chúng tôi tìm giúp bạn!
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×