-Sử dụng hình thức nuôi dàn cho các đối tượng rong biển và vẹm xanh ở
vùng ven biển nhằm cải thiện chất lượng môi trường nước (Andrea C.Alfaro &
et all, 2000) [24].
-Nuôi hỗn hợp nhiều đối tượng khác nhau trong ao nuôi tôm để làm tăng
tính bền vững và ổn định cho người nuôi tại các trại nuôi tôm ở Mêxico
(Franciso I.Martinez – codero, 2004) [26].
-Trồng rong câu (Gracillaria sp) trong ao nước thải tôm sú (Penaeus
monodon) ở Brazil (E. Marinho – Soriano E, C. Morales, 2002). Kết quả phân
tích ANOVA cho thấy tốc độ tăng trưởng tương đối của rong câu là khác nhau
(P<0,05) [25].
Nhìn chung các kết quả nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng việc nuôi hỗn
hợp nhiều đối tượng trong cùng một ao đã làm giảm mức độ rủi ro trong sản
xuất, chất lượng môi trường nước được cải thiện theo hướng tốt hơn. Chất lượng
sản phẩm của vật nuôi an toàn hơn do việc giảm thiểu sử dụng chất kháng sinh
và chế phẩm sinh học. Chính vì vậy mà hình thức nuôi hỗn hợp này ngày càng
được áp dụng ở nhiều nước có nghề nuôi thủy sản nước lợ - mặn phát triển (Lê
Thị Thu Hà, 2004; Anthony Charles, 2000).
2.2. Tại Việt Nam
Ở Việt Nam nghề nuôi tôm nói riêng và nuôi các đối tượng lợ mặn nói
chung đã phát triển mạnh. Diện tích nuôi trồng trong những năm qua tăng nhanh,
tăng 6,3%/năm giai đoạn 1998 – 2004. Nhờ đó sản lượng thủy sản nuôi trong
những năm qua tăng bình quân 13,6%/năm, năm 2004 tăng hơn 2,15 lần so với
năm 1998 [17]. Năm 2010, diện tích NTTS cả nước là 1.096.722 ha (đạt
109,68% so với chỉ tiêu). Sản lượng NTTS là 2.828.622 tấn, đạt 141,4% so với
kế hoạch. Về sản xuất giống, cơ bản đã đáp ứng đủ nhu cầu nuôi thương phẩm,
đặc biệt là giống các đối tượng nuôi chủ lực. Ví dụ, giống tôm nước lợ đạt 45 tỷ
con, bằng 128,6% so với kế hoạch, giống cá tra là 2,36 tỷ con, bằng 337,25% so
với kế hoạch, giống của một số loài thủy sản kinh tế và giống cá nước ngọt
truyền thống là 27, 5 tỷ con, bằng 229,2% so với kế hoạch. Kim ngạch xuất khẩu
từ NTTS đạt 3,5 tỷ USD, bằng 125% so với kế hoạch. Phát triển nuôi trồng thủy
sản đã giải quyết được 3,5 triệu việc làm cho người lao động, bằng 175% chỉ tiêu
đề ra. Ngoài ra, cơ sở hạ tầng vùng NTTS, vùng sản xuất giống tập trung từng