DANH MỤC TÀI LIỆU
Các nghiên cứu về mô hình nuôi ghép các đối tượng trong cùng một ao trên thế giới
Luận văn
Ảnh hưởng của mô hình nuôi xen
ghép nước lợ ở các vùng triều khác
nhau lên tốc độ tăng trưởng của tôm
sú (Penaeus monodon) và sự biến
động của một số yếu tố môi trường
1
PHẦN 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Thủy sản là ngành kinh tế mũi nhọn trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng,
nền kinh tế nước ta i chung. Thực tế đã cho thấy rằng, việc xuất khẩu các
sản phẩm thủy sản đã mang lại một nguồn ngoại tệ đáng kể, không những thế
việc nuôi trồng thủy sản đã giải quyết việc làm hiệu quả trở thành một nguồn
sinh kế quan trọng mang lại thu nhập cho người dân, đặc biệt vùng ven biển.
Do vậy, cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế thì ngành thủy sản đã có những
bước phát triển vượt bậc.
Trong vài năm trở lại đây, diện tích nuôi trồng thủy sản đã tăng nhanh
trong cả nước. Ngoài lợi nhuận do nh nuôi thâm canh tôm đem lại, thì
sự phát triển không theo quy hoạch của các hình nuôi tôm đã nảy sinh nhiều
vấn đề như: môi trường nước bị suy thoái do mô hình nuôi thải ra một lượng lớn
chất hữu vượt quá sức tải của môi trường, dịch bệnh xảy ra trên diện rộng
kéo dài dai dẳng, người nuôi thô lỗ nặng…
Thừa Thiên Huế với lợi thế là có đầm phá Tam Giang – Cầu Hai rộng lớn.
Do đó, nuôi trồng thủy sản nước lợ cũng phát triển trong nhiều năm nay với
nhiều đối tượng nuôi, mô hình nuôi khác nhau. Trong những năm gần đây, việc
nuôi đơn canh con tôm sú của người dân trong tnh đã không được thuận lợi như
trước nữa, đặc biệt trong năm 2002 thì hầu hết diện tích nuôi tôm toàn tỉnh bị
nhiễm bệnh đốm trắng. Với tình hình dịch bệnh ngày càng lan rộng thì việc đưa
ra các giải pháp một việc làm rất cần thiết cấp ch. Cùng với những giải
pháp như quy hoạch lại vùng nuôi, hoàn thiện quy trình kỹ thuật nâng cao
chất lượng giống. Việc tìm ra một hình thức nuôi thích hợp cũng như đa dạng
hóa các đối tượng nuôi trong cùng một ao để tận dụng nguồn thức ăn, giảm suy
thoái môi trường, hạn chế rủi ro… một bước đi phù hợp với tình hình hiện
nay.
Hình thức nuôi ghép nhiều đối tượng với mức đầu tư thấp, quản lý ao nuôi
dễ dàng, chất lượng sản phẩm cao Do vậy, hình này rất thích hợp với
người dân vùng ven đầm phá Thừa Thiên Huế. Gần đây, tại địa bàn Thừa
Thiên Huế có rất nhiều hình nuôi kết hợp đã đang được áp dụng như
2
hình nuôi sinh thái ốc hương, rong sụn, rong câu, cá dìa, vẹm xanh tại đầm Lăng
(Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản III, 2004); nuôi cá rô phi kết hợp trong
ao đất Phú An (Phú Vang); nuôi tôm xen canh Quảng Thành (Quảng Điền),
Thuận An (Phú Vang) năm 2003; nuôi dìa - rong câu tôm (Nguyễn Thị
Bích Thủy, 2007) bước đầu mang lại hiệu quả. Bên cạnh đó còn các hình
nuôi ghép của những đề i nghiên cứu chuyển đổi hình thức theo hướng bền
vững và khả năng cải thiện môi trường của những d án nghiên cứu về đầm
phá Thừa Thiên Huế như dự án IDRC, dự án IMOLA và các đề tài cấp tỉnh, cấp
bộ của một số tác giả cũng thu được những kết quả nhất định.
Kết quả của những nghiên cứu về hình thức nuôi kết hợp đã được triển
khai đã góp phần nh hướng cho người dân tìm ra hình thức nuôi p hợp với
tình nh thực tế tại địa phương và bước đầu đã đạt được những kết quả tích cực
nhất định. Tuy nhiên, hiệu quả nuôi ghép ở các tiểu vùng sinh thái khác nhau cho
kết quả không giống nhau. thế, cầnnhững nghiên cứu để tìm ra vùng nuôi
phù hợp với các mô hình xen ghép khác nhau. Từ đó giúp người dân áp dụng các
biện pháp kỹ thuật hợp lý hơn. Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và được sự đồng ý
của Khoa Thuỷ sản tôi tiến hành thực hiện đề tài: Ảnh hưởng của hình
nuôi xen ghép nước lợ các vùng triều khác nhau n tốc độ tăng trưởng
của tôm (Penaeus monodon) sự biến động của một số yếu tố môi
trường”.
1.2. Mục tiêu đề tài
- Đa dạng hóa đối tượng nuôi
- Xác định vùng nuôi phù hợp, hiệu quả nhất cho hình nuôi xen ghép tôm
– cua – cá kình.
3
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Các nghiên cứu về mô hình nuôi ghép các đối tượng trong cùng một ao
trên thế giới
Nuôi ghép hỗn hợp một số đối tượng khác nhau trong cùng một ao đã
được nghiên cứu thực hiện từ lâu nhiều ớc trên thế giới, đặc biệt trong
lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Đi đầu trong lĩnh vực này Trung
Quốc, các nhà nghiên cứu nuôi trồng thủy sản đã biết kết hợp nuôi nhiều loài
cá khác nhau trong cùng một ao và phát triển nguyên lý chọn đối tượng cho việc
nuôi ghép là: (i) không mâu thuẫn đối kháng về môi trường sống, (ii)
không mâu thuẫn đối kháng về tập tính dinh dưỡng. Trên sở đó họ đã đưa
5 - 7 loài cá khác nhau như cá chép, cá rô phi, cá Wuchang, cá trắm, cá mè trắng,
và cá mè hoa... vào trong cùng một ao (Zhong lin, 1991). Kết quả mô hình này là
đã tận dụng được các tầng nước khác nhau làm tăng hiệu quả sử dụng khối nước.
Quan trọng hơn sự tương hỗ của các đối tượng nuôi trong dinh dưỡng, tận
dụng tối đa lượng thức ăn đưa vào. Cụ thể, trắm cỏ ăn một lượng cỏ rất lớn
nếu nuôi rng đối tượng này s thải ra một lượng lớn phân vào ao gây ô nhiễm
môi trường. Khi nuôi ghép phân thải của cá trắm cỏ là thức ăn trực tiếp cho cá rô
phi, trôi và cá mè. Bên cạnh đó, phân thải tác dụng như việc phân chuồng
khi phân giải thành các muối dinh dưỡng sẽ kích thích cho thực vật phù du phát
triển, loại thức ăn chính cho trắng. chép tập tính ăn đào bới nền
đáy giúp cho việc khoáng hóa các chất dinh dưỡng vào ớc đồng thời tạo
điều kiện cho các chất khí độc thoát ra ngoài dễ dàng (Zhong Lin, 1991). Ở nước
ta hiện nay các mô hình nuôi ghép này đã và đang được áp dụng hầu hết các tỉnh
thành trong toàn quốc và cho kết quả tốt [8].
Nuôi trồng thủy sản nước lợ, nước mặn lịch s phát triển muộn hơn so
với nghề nuôi nước ngọt. Tuy nhiên, do giá trị kinh tế cao của các đối tượng
nuôi một tiềm năng lớn để phát triển nên nuôi trồng thủy sản lợ mặn đã phát
triển mạnh trở thành ngành đưa lại nguồn thu nhập chính cho người dân ven
biển.
Ngày nay, sản xuất thủy sản đang thường xuyên phải đối mặt với tình
trạng ô nhiễm môi trường ngày càng gia tăng do chính hoạt động nuôi trồng thủy
4
sản gây ra. Nhiều quốc gia đã khuyến cáo việc s dụng quá mức các hóa chất
trong nuôi trồng chế biến thủy sản, lạm dụng kỹ thuật, đầu tư thâm canh quá
cao nguyên nhân chủ yếu làm phá vỡ sự cân bằng nhiều vùng sinh thái ven
biển. Bên cạnh đó, việc sử dụng thuốc kháng sinh một cách bữa bãi trong phòng
trị cho các đối tượng nuôi thủy sản đã gây ra các tình trạng kháng thuốc trên
diện rộng. Kết qu lượng thuốc kháng sinh tn động trong sản phẩm nuôi
quá mức cho phép gây nh hưởng lớn đến môi trường sinh thái sức khỏe
người tiêu dùng [27].
Trước tình hình như vậy nhiều nhà khoa học trên thế giới đã đầu nghiên
cứu theo một số hướng khác nhau. Cụ thể: Nghiên cứu sử dụng chế phẩm sinh
học khác nhau đ cải thiện chất lượng nước. Thực tế, hiện nay trên thị trường có
bán rất nhiều loại chế phẩm khác nhau đang được người dân sử dụng do hãng
thức ăn thuốc sản xuất như: chế phẩm EM, BZT, SUPER VS, pH FIXER,
SUPER BIOTIC, ... Bên cạnh đó nhiều cơ sở sản xuất lớn đã xây dựng hệ thống
ao hồ tuần hoàn có ao xử thông qua hình thức lọc sinh học để hạn chế sự tích
tụ của các muối dinh dưỡng; sử dụng khí Ozôn đển khử các khí độc; nuôi ghép
các đối tượng khác nhau trong ao nuôi tôm để hạn chế các chất độc hại. Một
hướng nghiên cứu khác nhằm cải thiện chất lượng môi trường nước nuôi kết
hợp nhiều đối tượng trong cùng một ao, từ đó làm tăng tính bền vững trong nghề
nuôi trồng thủy sản nước lợ - nước mặn. Trên sở các hoạt động thực tế của
việc nuôi ghép một số nghiên cứu điển hình đã được các nhà khoa học tổng hợp
và trình bày trong các tài liệu như:
- Đài Loan nhóm nghiên cứu của Lo Chai Chen (1990) khi tiến hành
thí nghiệm so sánh hàm lượng vật chất hữu trong ao nuôi ghép
măng (Chanos channos), đối (Mugil cephalus), tôm (Penaeus monodon),
rong câu (Gracillaria sp) với ao nuôi chuyên tôm sú. Kết quả cho thấy ao
nuôi ghép thì hàm lượng các vật chất hữu cơ và vô cơ lơ lửng thấp hơn so với ao
nuôi chuyên tôm sú có ý nghĩa về mặt thống kê (P<0,05).
- Nuôi hỗn hợp các loài động thực vật thủy sinh trong cùng một ao (Johns
Lucas, 2003).
5
-Sử dụng hình thức nuôi dàn cho các đối tượng rong biển vẹm xanh
vùng ven biển nhằm cải thiện chất lượng môi trường nước (Andrea C.Alfaro &
et all, 2000) [24].
-Nuôi hỗn hợp nhiều đối tượng khác nhau trong ao nuôi tôm để làm tăng
tính bền vững ổn định cho người nuôi tại các trại nuôi tôm Mêxico
(Franciso I.Martinez – codero, 2004) [26].
-Trồng rong câu (Gracillaria sp) trong ao nước thải tôm (Penaeus
monodon) Brazil (E. Marinho Soriano E, C. Morales, 2002). Kết quả phân
tích ANOVA cho thấy tốc độ tăng trưởng ơng đối của rong câu khác nhau
(P<0,05) [25].
Nhìn chung các kết quả nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng việc nuôi hỗn
hợp nhiều đối tượng trong cùng một ao đã làm giảm mức độ rủi ro trong sản
xuất, chất lượng môi trường nước được cải thiện theo hướng tốt hơn. Chất lượng
sản phẩm của vật nuôi an toàn hơn do việc giảm thiểu sử dụng chất kháng sinh
chế phẩm sinh học. Chính vậy hình thức nuôi hỗn hợp này ngày càng
được áp dụng nhiều nước nghề nuôi thủy sản nước lợ - mặn phát triển (Lê
Thị Thu Hà, 2004; Anthony Charles, 2000).
2.2. Tại Việt Nam
Việt Nam nghề nuôi tôm nói riêng nuôi các đối tượng lợ mặn nói
chung đã phát triển mạnh. Diện tích nuôi trồng trong những năm qua tăng nhanh,
tăng 6,3%/năm giai đoạn 1998 2004. Nhờ đó sản lượng thủy sản nuôi trong
những năm qua tăng bình quân 13,6%/năm, năm 2004 tăng hơn 2,15 lần so với
năm 1998 [17]. Năm 2010, diện tích NTTS cả nước 1.096.722 ha (đạt
109,68% so với chỉ tiêu). Sản lượng NTTS 2.828.622 tấn, đạt 141,4% so với
kế hoạch. Về sản xuất giống, bản đã đáp ứng đủ nhu cầu nuôi thương phẩm,
đặc biệt là giống các đối tượng nuôi chủ lực.dụ, giống tôm nước lợ đạt 45 tỷ
con, bằng 128,6% so với kế hoạch, giống tra là 2,36 tỷ con, bằng 337,25% so
với kế hoạch, giống của một số loài thủy sản kinh tế và giống nước ngọt
truyền thống là 27, 5 tỷ con, bằng 229,2% so với kế hoạch. Kim ngạch xuất khẩu
từ NTTS đạt 3,5 tỷ USD, bằng 125% so với kế hoạch. Phát triển nuôi trồng thủy
sản đã giải quyết được 3,5 triệu việc làm cho người lao động, bằng 175% chỉ tiêu
đề ra. Ngoài ra, sở hạ tầng vùng NTTS, vùng sản xuất giống tập trung từng
6
thông tin tài liệu
Nuôi ghép hỗn hợp một số đối tượng khác nhau trong cùng một ao đã được nghiên cứu và thực hiện từ lâu ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản nước ngọt. Đi đầu trong lĩnh vực này là Trung Quốc, các nhà nghiên cứu và nuôi trồng thủy sản đã biết kết hợp nuôi nhiều loài cá khác nhau trong cùng một ao và phát triển nguyên lý chọn đối tượng cho việc nuôi ghép là: (i) không có mâu thuẫn đối kháng về môi trường sống, và (ii) không có mâu thuẫn đối kháng về tập tính dinh dưỡng. Trên cơ sở đó họ đã đưa 5 - 7 loài cá khác nhau như cá chép, cá rô phi, cá Wuchang, cá trắm, cá mè trắng, và cá mè hoa... vào trong cùng một ao (Zhong lin, 1991). Kết quả mô hình này là đã tận dụng được các tầng nước khác nhau làm tăng hiệu quả sử dụng khối nước. Quan trọng hơn là sự tương hỗ của các đối tượng nuôi trong dinh dưỡng, tận dụng tối đa lượng thức ăn đưa vào
Mở rộng để xem thêm
tài liệu giúp tôi
Nếu bạn không tìm thấy tài liệu mình cần có thể gửi yêu cầu ở đây để chúng tôi tìm giúp bạn!
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×