TÓM TẮT
LÂM THỊ NGỌC THANH , Đại học Nông Lâm TP.HCM, tháng 9/2005. “ĐÁNH
GIÁ ẢNH HƢỞNG CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ SINH HỌC LÊN CHẤT LƢỢNG
NOÃN CHÓ Ở ĐIỀU KIỆN IN VIRO”.
Giáo viên hƣớng dẫn
PGS. TS. TRẦN THỊ DÂN
BSTY. QUÁCH TUYẾT ANH
KS. NGUYỄN VĂN ÚT
Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhƣ IVM, IVF, IVD đã trở nên phổ biến trên thế giới.
Đã có nhiều nghiên cứu trên các đối tƣợng heo, bò, cừu, chuột…đạt đƣợc những
thành tựu đáng kể. Trên chó, các kỹ thuật này còn nhiều hạn chế do cơ chế trƣởng
thành của noãn có nhiều khác biệt so với các loài động vật khác. Do đó, kỹ thuật
nuôi noãn chín cần đƣợc hoàn thiện, làm nền tảng cho các nghiên cứu kế tiếp. Đề
tài đƣợc thực hiện và đạt đƣợc những kết quả sau:
Chó nhỏ hơn 5 tháng tuổi không thể cung cấp noãn cho IVM. Số noãn lấy
đƣợc trên mỗi chó cái ở giai đoạn này là 2,31 noãn, chất lƣợng noãn cũng
không ổn định. Chỉ nên lấy noãn của chó đã trên 5 tháng tuổi. Ở độ tuổi
này, tỉ lệ noãn lấy đƣợc trên mỗi chó cái là 25,38 noãn.
Tỉ lệ IVM thành công 0.75% trên buồng trứng lấy ở giai đoạn 1(chó vừa bị
đập chết). Buồng trứng ở giai đoạn 2 và 3 trong quy trình giết mổ (sau khi
thui lửa gas) không thể dùng cho IVM.
Theo giai đoạn sinh sản, buồng trứng ở giai đoạn có xoang nang là nguồn
cung cấp noãn dồi dào nhất cho IVM(42,41 noãn/chó). Noãn cũng đạt đƣợc
hình thái tốt nhất ở giai đoạn này. Ngƣợc lại, chó ở giai đoạn nuôi con là có
số noãn thấp nhất(9,8 noãn/chó), có lẽ do prolactin đã ức chế sự phát triển
của nang noãn. Số noãn thu đƣợc trên các giai đoạn còn lại là: thể vàng
(13.63), nghỉ ngơi (14,2) và mang thai (15,88).