DANH MỤC TÀI LIỆU
Cạnh tranh tương đối
Phần 3
BIẾT VỊ TRÍ CẠNH TRANH TƯƠNG ĐỐI CỦA MÌNH
Colombia, chúng tôi tiến hành một cuộc nghiên cứu kéo dài 3 tháng vế tính cạnh
tranh tương đối của ngành công nghiệp hóa dầu của đất nước này - một dự án được
sự tài trợ của Hiệp Hội Công Nghiệp Hóa Dầu Bộ trưởng Bộ Ngoại Thương.
Cuộc nghiên cứu bắt đầu khi Bộ trưởng Bộ Ngoại Thương tiến hành đàm phán hiệp
định thương mại ba bên: Colombia, Mehico, Venezuela.
Chúng tôi trình bày kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho ban điều hành hiệp hội
ngành trước. Chúng tôi đ ã đoán trước buổi trình bày đó sẽ hết sức khó khăn
kết quả phân tich cho thấy chi phí của Colombia đang một vị trí rất xấu so với
Venezuela Mehico, polypropylene - loại nhựa chúng tôi nghiên cứu lúc đó -
không được xem hấp dẫn lắm lúc đó. Thật sự thì chúng tôi đ ã đi đến kết luận
Colombia đang chịu 18% bất lợi về mặt chi phí ít hội cải thiện cả vị trí
tương đối của họ lẫn sức hấp dẫn của phân khúc thị trường khách hàng màhọ đang
phục vụ, ít ra là trong tương lai gần.
Ngạc nhiên thay, các thành viên của ban điều hành đón nhận kết quả trình bày một
cách dễ dàng họ đồng ý với phân tích của chúng tôi. Nhưng dường như họ ch
chú trọng mộ t khía cạnh trong những điều chúng tôi muốn truyền đạt: chính phủ
Colombia đang cho phép một trong những ngành công nghiệp quan tr ọng nhất của
họ mất dần sức cạnh tranh so với các đối thủ truyền thống của mình. Dĩ nhiên vai
trò của chính phủ trong vấn đề này không phải tất cả những chúng tôi muốn
nói. Nhưng ít ra lúc đó chúng tôi đã chiếm được lòng tin của các thành viên ban điều
hành, họ tin rằng chúng tôi có thể thuy ết phục tổng thống Gaviria, người chúng
tôi sắp gặp, góp phần bảo đảm việc sống còn của ngành công nghiệp.
Chúng tôi đến phủ tổng thống ngồi vào chỗ củ a mình văn phòng nội các. Căn
phòng đầy người - trong đó khách hàng của chúng tôi, Bộ trưởng Bộ Ngoại Thương
20 thành viên ban điều hành hiệp hội công nghiệp hóa dầu. Chúng tôi nghĩ rằng tổng
thống Gaviria sẽ nghi ngờ chúng tôi. ông đã gặp nhiều ngườ i nước ngoài, nhất từ
Ngân hàng thế giới Quỹ tiền tệ quốc tế, đến để cho ông lời khuyên trong quá trình
apertura của ông. Ti ếng Tây Ban Nha apertura nghĩa quá trình mở cửa nền kinh
tế Colombia do tổng thống Barco khở i đầu cuối thập niên 80 và phần lớn do tổng thống
Gaviria cùng với nội các trẻ tuổ i tài năng của ông hoàn tất. Chúng tôi nghĩ rằng ông cho
chúng tôi đang có ý định vận động với mục đích làm lợi cho ngành công nghiệp hóa dầu
và chi phối vi ệc điều hành nền kinh tế vĩ mô xung quanh ngành công nghiệp này. Chính
vậ y không ngạc nhiên khi ông vẻ không quan tâm lắm đến những
chúng tôi trình bày, tuy nhiên ông vẫn lắng nghe chăm chú.
Chúng tôi tập trung vào phần phân tích chi ptương đối., một phương thứ c chúng
tôi dùng để quyết định mức độ cạnh tranh của mộ t công ty trong một ngành nghề
nhạy cảm với chi phí. Phân tích của chúng tôi làm rõ nh ững lựa chọn mà chính phủ
khu vực kinh tế nhân phải lựa chọn nếu muốn ngành công nghiệp hoá dầu
sống sót, chứ đừng nói chi đến phát triển thịnh vượng. các lựa chọn này không
dễ dàng chút nào.
Khi xem xét lại hoàn cả nh lúc bấy giờ, thật đáng khâm phục khi chính phủ
ngành công nghiệp thể tiến hành một cuộc đối thoại có hiệu quả. Hiệp hội ngành
muốn chính phủ ý thức được rằng các hành động của chính phủ đã gây thiệt hại đến
mức nào đối với vị trí tương đối của ngành công nghiệp hóa dầu Colombia. Trong
khi đó chính phủ lại hoài nghi không biết một số bộ phận của ngành công nghiệp
hóa dầu chút tương lai phát tri ển nào không. Mặc đôi bên nhìn vấn đề từ nh
ững góc độ khác nhau, cả hai bên đều đánh giá được tầm quan trọng của việc hiểu
được vị trí tương đối của ngành công nghiệp hóa dầu của nước này: việc quáng
không thấy đượ c tình hình cạnh tranh đã gây thiệt hại rất nhiều cho họ. Nếu có phải
quyết định đưa ra những chọn lự a khó khăn thì ít ra nếu hiểu đượ c vị trí tương đối
này thì họ cũng có thể có đầy đủ thông tin để lựa chọn, và cả chính phủ lẫn hiệp hội
ngành nghề có thể chấp nhận tình hình thực tế và quyết định lựa chọn.
Dường như mộ t điể m rất ràng - rằng trước khi tiến hành bất cứ hành động
chiến lược nào thì chính phủ và ngành công nghiệp thường muốn biết họ đang vị
trí tương ứng nào so với đối thủ cạnh tranh. Nhưng kinh nghiệm c ủa chúng tôi ở các
nước đang phát triển đã ch ứng minh theo hướng hoàn toàn ngược lại, thông thường
các quyết định quan tr ọng lại đượ c đưa ra trong tình trạng thiếu thông tin. Các
nước này không bao giờ biết đượ c cách nắm bắt tạo ra kiến thức đơn giản
trong nền kinh tế nhỏ được bảo hộ của họ, điều này không quan trọng.
Các công ty không hiểu được vị trí tương đối của mình so với các đối thủ trong một
ngành công nghiệp nhất định sẽ thất bại. Mặt khác, chính phủ nếu hiểu được vị trí
tương đối có thể giúp cho các công ty biết cách chọn phương thứclãnh vực cạnh
tranh. Nhưng nếu không nhân vật chủ chốt đóng vai trò ra quyết định trong nền
kinh tế nào hiểu được v trí tương đối thì không ai nhận ra thứ tự ưu tiên nhằm
cải thiện môi tr ường cạnh tranh bảo đảm cho các công ty mặt bằng xuất phát
ban đầu để cạnh tranh trên tầm mức toàn cầu.
Hãy cùng nhớ lại mô hình các nước không biết đánh giá cao vị trí tương đối đ ã thất
bại như thế nào trong câu chuyện về ngành trồng hoa: Colombia mất thị phần th
trường Mỹ họ không biết được mình đứng đâu so với các nhà trồng hoa khác,
nhất các nhà vườn Lan. Các dụ tương tự như thế đầy dẫy trong các nước
đang phát triển. Theo kinh nghiệm của chúng tôi, thiếu kiến thức về vị trí tương đối
dẫn đến ba loại vấn đề:
1. Thói quen thông tin liên lạc kém hiệu quả ngăn cản việc đối thoại hiệu quả trong
nội bộ khối kinh tế tư nhân và giữa bộ phận kinh tế tư nhân với chính phủ: người
ta dành nhiều thời gian cho việc vận động hành lang hơn là lắng nghe lẫn nhau.
2. Khuynh hướng lựa chọn không thông tin đầy đủ do thiếu hiểu biết hoặc
đưa ra những giả thiết thiếu chính xác về các khả năng tương đối từ đó dẫn đến
các vị trí không định trước trong các lãnh vực kinh doanh không hấp dẫn.
3. Mức độ dễ bị ảnh hưởng tiêu cực do cạnh tranh có thể bào mòn các lợi thế
thường được xem là bền vững.
THÔNG TIN LIÊN LẠC KHÔNG HIỆU QUẢ
Khi không hiểu bi ết rõ ràng về vị trí tương đối củ a một ngành công nghiệp thì đối
thoại giữa bộ phận kinh tế tư nhân và chính phủ trở nên kém hiệu quả. Các bộ trưởng
thiếu kiên nhẫn khi nghe các tin tức các hiệp hội ngành nghề thì than vãn họ
cần chính phủ hỗ trợ để cạnh tranh. Nếu có dữ liệu minh hoạ cho những lời than vãn
này thì bộ trưởng chuyên trách thường có khuynh hướng bác bỏ vì cho rằng đấy chỉ
thông tin cố ý chọn lọc để phục vụ cho mục đích vận động hành lang. trong
khi bộ trưởng đó n ổi nóng lên cho rằng bộ phận kinh tế nhân không kh
năng trình bày ràng tại sao chính phủ phải htrợ cho ngành nghề nào đó hỗ
trợ như thế nào, trong bao lâu, thì bộ phận kinh tế nhân lại cho rằng chính phủ
không hề quan tâm đến họ.
Câu chuyện của chúng i về việc tổng thống Gaviria c ởi mở lắng nghe về ngành
công nghiệp hóa dầu Colombia cho thấy, chún tôi đ ã tìm ra rằng việc tích cực phân
tích vị trí tương đối thể làm cho đôi bên hội thảo luận và từ đó thể tiến
hành đối thoại một cách xây dựng.
CÁC LỰA CHỌN THIẾU THÔNG TIN
Không biết vị trí tương đối của mình so với các đối thủ cạnh tranh khác th gây
ra hai lựa chọ n thiếu thông tin và thường là gây thiệt hại. Loại lựa chọ n thứ nhất là
không hành động khi các hội nhất định đến với các công ty một nước nào
đó. Loại lựa chọn thứ hai không đầu vào những lãnh vực nhiều yếu tố chưa
biết rõ.
Hãy bắt đầu với lựa chọn đầu tiên: không bước chân vào thương trừơng cạnh tranh. Hãy
nhớ lại rằng Garcia Marquez đã nói việc nh ận diện được một nhà văn có tài n ăng bằng
cách nhìn vào giỏ rác của người đó. Bàn về tính cạnh tranh cũng thế, đôi khi quyết định
không cạnh tranh trên một số lãnh vực nhất định nào đó thể chiến lược tốt. Tuy
nhiên, thường thì không phải các công ty ở các nước đang phát tri ển cố tình không cạnh
tranh trên lãnh vực nào đó vì lý do nhất định đơn thuầnsợ hãi. Nỗ i sợ hãi này
thông thường là do các giả thiết thiếu chính xác về khả năng của công ty này so với
công ty khác. Sợ hãing ch ưa hẳn là xấu. Nhưng chọn lựa việc không cạnh tranh chỉ
sợ hãi một đối thủ cạnh tranh mà ưu điểm khuyết điểm đều chưathì rõ ràng có thể
gây thiệt hại cho công việc kinh doanh của mình.
Trong quá trình làm việc tại Bolivia, chúng tôi quan sát thấy khuynh hướng né tránh
cạnh tranh chúng tôi quyết định nghiên cứu một nhóm các nhà lãnh đạo doanh
nghiệp Bolivia nổi tiếng để khám phá động c ơ nằm phía sau hành vi này. Các nhà
lãnh đạo doanh nghiệp này đánh giá nước họ so với các nước láng giềng trong khu
vực Andes về một số phương diện. Một trong các phương diện đó là uy tín quốc gia.
Chúng tôi đã tìm ra rằng Bolivia một quốc gia các nhà lãnh đạo rất tự ti về
tính cạnh tranh trong xuất khẩu. Những ngườ i tham gia cuộc nghiên cứu này đã
đánh giá rằng Bolivia y ếu kém hơn 6 trong số 7 nước được xét và cho rằng bản thân
nước Bolivia của họ chỉ xếp ngang bằng nước thứ 7.
Khi xem xét các d liệu nghiên cứu, một doanh nhân Bolivia đã nh ận xét " Bolivia
thái độ của người chiến bại. Vi ệc thua cuộc đây được chấp nhận dễ dàng" Một nhà
lãnh đạo khác nói " Chúng tôi ít khi thành công trong kinh doanh bên ngoài biên giới
quốc gia đến nỗi việ c thắng cuộc dường nh ư hoàn toàn không thể xảy ra. đôi khi tôi có
cảm giác chúng tôi thậm chí không muốn xuất khẩu vì chúng tôi không biết liệu
rằng chúng tôihội cạnh tranh nào hay không nữa. Việc nướ c khác cạnh tranh
như thế nào hoàn toàn một mật đối với chúng tôi chúng tôi lúc nào cũng
nghĩ là mình lạc hậu và không có khả năng đương đầu với thử thách."
Quả thậ t nhiều nhà lãnh đạo doanh nghiệp tại các nước thế giới thứ 3 thường cho
rằng công ty họ không có khả năng c ạnh tranh với các công ty thuộc các nước khác.
Thái độ của họ thường "N ếu không thng thì thua, nếu thua không đủ khả
năng" Có vẻ như lập luận này rất logic nhưng đây cũng chỉ là giả thiết. Lập luận này
ngầm ý đề cập đến một chuẩn mực lãnh đạo các công ty này không đạt đến hay
vượt qua nhưng không ai định hay đo lường đượ c mức chuẩn mực này cả. Một
lãnh đạo doanh nghiệp với duy kiểu đó không thể nói "Chúng ta kém hiệu quả h
ơn đối thủ cạnh tranh chủ yếu của chúng ta 20%" hay "Chúng ta phải cắt giảm chi
phí trong lãnh vực này 4 đô la một tấn đthể đạt được ưu thế cạnh tranh về chi
phí" điều duy nhất người lãnh đạo này biết chỉ công ty của ông ta không đạt mức
chuẩn mực mà chuẩn mực này thì phần lớn do chủ quan suy nghĩ của ông ta.
Khi lãnh đạo doanh nghiệp không biết mình đứng đâu so với đối thủ cạnh tranh
của mình thì họ thiếu thông tin hữu ích chó vi ệc quyết định đầu vào các phân
đoạn công nghiệp mới hoặc tìm kiếm các phương thức mới mẻ để cạnh tranh và phá
bỏ các mô hình cạnh tranh cũ miêu tả ở đây.
Loại chọn lựa thứ haicác công ty và các ngành nghề thông thường hay vấp phải
do thi ếu thông tin thì tương đối dễ giải quy ết hơn loại lựa ch ọn thứ nhất. Các công
ty quyết định đầu tư thường không biết rõ hai yếu tố biến thiên quan trọng mà chúng
tôi đã nêu trong câu chuyện về ngành công nghiệp da Colombia (1) tính hấp dẫn về
cấu ngành ngh đố i với mộït công ty trung bình (2) v trí c ạnh tranh tương
đối của công ty so với các đối thủ cạnh tranh khác trong ngành công nghiệp. Các
yếu tố này có thể được trình bày trên sơ đồ như hình 3-1.
Trước khi một công ty ở bất cứ một nước nào đầu tư vào một ngành nào đó, họ phải
biết câu trả lời cho hai câu hỏi trên tiềm ẩn trong hai yếu tố này. Việc chính phủ
thường can thiệp mạnh vào các ngành công nghiệp đang phát triển từ tr ước đến nay
đã dẫn đến việc các lãnh đạo chính phủ doanh nghiệp không tiến hành các công
tác cần thiết để hiểu được ưu điểm nhược điểm tương đối của một ngành nghề
nhất định nào đó. Các biện pháp khuyến khích chính phủ các quan đa
phương tiến hành để tác động vào các công ty thường tác dụng về mặt kinh tế
mô nhiều hơn là kinh t ế vi mô. Một ví dụ cụ thể là môi trường ở Venezuela, nơi các
lãnh đạo bộ phận kinh tế quốc doanh và tư nhân bận rộn xem xét các tài liệu về tỷ lệ
lạ m phát, cán cân thanh toán quốc tế, giá cả cổ phiếu Brady tính bằng bolivares
(tiền nội tệ) thay vì xây dựng cơ sở hạ tầng chuyên dụng, phát triển chiến lược công
ty, và chú trọng phát triển nguồn vốn nhân lực.
Một ví dụ khác là ngành hóa dầu Colombia. Việc phân tích cụ thể v ị trí tương đối sẽ rất
ích trước khi ngành công nghiệp này quyết định đầu ng triệu đô la. Như chúng
tôi đã nói, ngành hoá dầu Colombia - nhất là việc sản xuất polypropylen, một sản phẩ m
có thể đại diện cho toàn bộ ngành này - rõ ràng rất bất lợi về mặt chi phí so với các nước
khác. Hình 3-2 tóm tắt tình nh vị trí này. Ba yếu tố chính gây ra tình trạng bất lợi về
chi phí cho Colombia là (1) giá cả nguyên liệu thô (2) giá dịch vụ
Toát
Tính haáp daãn
cuûa ngaønh
Khoâng toát
công cộng (3) chi phí vận tải. Trong mục phân tích từng phần, chúng tôi nghiên
cứu vị trí chi phí tiền mặt của một công ty hoá dầu Colombia so với 3 đối thủ cạnh
tranh quan trọng nhất của công ty này trong khu vực - Propilven Venezuela
PEMEX Mehico Indelpro - thấy rằng công ty Colombia không thể cạnh
tranh về mặt chi phí với bất cứ công ty nào trong số các đối thủ cạnh tranh của họ.
Hình 3-1 Cấu trúc ngành công nghiệp và vị trí chi phí tương đối
Thaønh coâng
Thaát baïi
Khoâng toát
Vò trí töông ñoái Toát
Một số lãnh đạo ngành công nghiệp cho rằng các vấn đề Propilco gặp phả i trên
thị trườngdo các giới hạn mà các chính sách chính phủ Colombia áp đặt lên công
ty. điều này đúng hay không, chúng tôi tin rằng không sự hỗ trợ giúp đỡ
của chính phủ, Propilco không bao giờ th duy trì hoạt động hay tiếp tục cạnh
tranh trong thì ngành sản xu ất polypropylen ở Châu Mỹ La tinh. Chi phí năng lượng
của Propilco cao bởi giá cả dị ch vụ công cộng nước này cao. Chi phí hậu cần
cao hệ thống sở hạ tầng giao thông vận tả i của nước này yếu kém xuống
cấp. Chi phí bảo hiểm cao Colombia tình hình an ninh trật tự không tốt, lực
lượng du kích và bọn buôn bán ma tuý khiến cho tình hình lúc nào cũng căng thẳng
bạo lực. Propylennguyên liệu thô đầu vào của quá trình sản phẩm, chi phí cao
vì nhà máy hóa dầu quốc doanh Ecopetrol, không sản xuất propylen cấp độ polymer,
do đó Propilco phải nhập khẩu nguyên liệu này từ bờ biển Texas-Louisiana ở Mỹ.
Hình 3-2 Vị trí chi phí tương đối của ngành sản xuất polypropylen: Colombia,
Venezuela và Mehico, 1992
Ghi chú:
1. Tổng chi phí tiền mặt phục vụ thị trường nội địa chiếm 85% tỷ lệ sử dụng
2. Thông tin về Propilco được công bố với sự cho phép của khách hàng trong các
tài liệu xuất bản trước đây. Thông tin sử dụng trong hình này đã 5 năm qua
không phản ánh tình hình vị trí hiện tại của Propilco
60
50
40
30
20
10
0
Propylen
Nguyen lieu tho khac
Dien nuoc
Lao dong
Gian tiep nha may
Ban hang & hanh chanh
Khac
Hau can
thông tin tài liệu
Quyển sách này tập trung phân tích chi phí tương đối, một phương thức quyết định mức độ cạnh tranh của công ty trong một ngành nghề nhạy cảm với chi phí.
Mở rộng để xem thêm
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×