(4) Bằng chứng về một biện pháp xử lý không hữu hiệu đối với những rủi ro đáng kể
xác định được (ví dụ, không có kiểm soát đối với rủi ro đó);
(5) Kiểm soát nội bộ của đơn vị không ngăn chặn, hoặc phát hiện và sửa chữa được
những sai sót mà kiểm toán viên phát hiện;
(6) Điều chỉnh lại báo cáo tài chính đã phát hành các kỳ trước để phản ánh việc sửa
chữa một sai sót trọng yếu do nhầm lẫn hoặc gian lận;
(7) Bằng chứng về việc Ban Giám đốc không có khả năng giám sát việc lập và trình
bày báo cáo tài chính.
A8. Theo hướng dẫn tại đoạn A66 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 315, các kiểm
soát có thể được thiết kế để thực hiện riêng lẻ hoặc kết hợp lại để ngăn chặn hoặc phát
hiện và sửa chữa những sai sót một cách hữu hiệu. Ví dụ, các kiểm soát đối với các khoản
phải thu có thể bao gồm cả kiểm soát tự động và kiểm soát thủ công được thiết kế để
cùng ngăn chặn hoặc phát hiện và sửa chữa những sai sót trong số dư tài khoản. Bản thân
một khiếm khuyết trong kiểm soát nội bộ có thể không đủ để hình thành nên một khiếm
khuyết nghiêm trọng. Tuy nhiên, sự kết hợp của các khiếm khuyết có ảnh hưởng đến
cùng số dư tài khoản, thông tin thuyết minh, cơ sở dẫn liệu liên quan, hoặc thành phần
của kiểm soát nội bộ có thể làm tăng rủi ro sai sót tới mức có thể làm phát sinh một
khiếm khuyết nghiêm trọng.
A9. Pháp luật và các quy định có thể yêu cầu (đặc biệt đối với việc kiểm toán các tổ
chức niêm yết) kiểm toán viên phải trao đổi với Ban quản trị hoặc các bên liên quan khác
(như các cơ quan quản lý) về một hoặc nhiều loại khiếm khuyết cụ thể trong kiểm soát
nội bộ mà kiểm toán viên đã phát hiện trong quá trình kiểm toán. Khi pháp luật và các
quy định đã xây dựng những thuật ngữ và định nghĩa cụ thể cho từng loại khiếm khuyết
và yêu cầu kiểm toán viên sử dụng những thuật ngữ và định nghĩa này cho mục đích trao
đổi thông tin, kiểm toán viên phải tuân thủ các yêu cầu của pháp luật và các quy định.
A10. Khi pháp luật và các quy định đã xây dựng những thuật ngữ cụ thể cho các loại
khiếm khuyết trong kiểm soát nội bộ cần phải được trao đổi nhưng không định nghĩa
những thuật ngữ đó, kiểm toán viên có thể cần phải sử dụng xét đoán của mình để xác
định các vấn đề cần phải được trao đổi thêm theo yêu cầu của pháp luật và các quy định.
Khi làm như vậy, kiểm toán viên có thể vận dụng các quy định và hướng dẫn của Chuẩn
mực này. Ví dụ, nếu yêu cầu của pháp luật hoặc các quy định được đặt ra với mục đích
lưu ý Ban quản trị về các vấn đề kiểm soát nội bộ mà Ban quản trị cần biết thì có thể coi
những vấn đề đó tương đương với những khiếm khuyết nghiêm trọng mà Chuẩn mực này
yêu cầu trao đổi với Ban quản trị.
A11. Các quy định của Chuẩn mực này vẫn được áp dụng ngay cả khi pháp luật hoặc các
quy định có thể yêu cầu kiểm toán viên sử dụng những thuật ngữ hoặc định nghĩa cụ thể.
Trao đổi về những khiếm khuyết trong kiểm soát nội bộ
6