DANH MỤC TÀI LIỆU
Chuẩn mực kiểm toán số 320: Mức trọng yếu trong lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán
Chun mc kim toán s 320
Chuẩn mực kiểm toán số 320: Mức trọng yếu trong lập kế hoạch thực hiện kiểm
toán
(Ban hành kèm theo Thông tư số 214/2012/TT-BTC
ngày 06 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài chính)
I/ QUY ĐỊNH CHUNG
Phạm vi áp dụng
01. Chuẩn mực kiểm toán này quy định hướng dẫn trách nhiệm của kiểm toán
viên doanh nghiệp kiểm toán (sau đây gọi “kiểm toán viên”) trong việc áp dụng
khái niệm “mức trọng yếu” trong lập kế hoạch thực hiện cuộc kiểm toán báo cáo tài
chính. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 450 hướng dẫn cách áp dụng mức trọng yếu
trong việc đánh giá ảnh hưởng của các sai sót được phát hiện đối với cuộc kiểm toán
đánh giá ảnh hưởng của những sai sót chưa được điều chỉnh (nếu có) đối với báo cáo tài
chính.
Mức trọng yếu trong kiểm toán
02. Các khuôn khổ về lập trình bày báo cáo tài chính đã quy định hướng dẫn về
khái niệm mức trọng yếu trong việc lập trình bày báo cáo i chính. Mặc khuôn
khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính có đề cập đến khái niệm mức trọng yếu theo các
thuật ngữ khác nhau, nhưng nhìn chung, mức trọng yếu được hiểu như sau:
Những sai sót, bao gồm cả việc bỏ sót, được coi trọng yếu nếu những sai sót
này, khi xét riêng lẻhoặc tổng hợp lại, được xem xét mức độ hợp lý, thể gây ảnh
hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính;
– Những xét đoán về mức trọng yếu được thực hiện trong từng trường hợp cụ thể
bị ảnh hưởng bởi quy hay bản chất của sai sót, hoặc được tổng hợp của cả hai yếu tố
trên;
Những xét đoán về các vấn đề trọng yếu đối với người sử dụng báo cáo tài chính
phải dựa trên việc xem xét các nhu cầu chung về thông tin tài chính của nhóm người sử
dụng, như các nhà đầu tư, ngân hàng, chủ nợ,… Những ảnh hưởng thể của các sai
sót đến một số ít người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính nhu cầu của họ
nhiều khác biệt so với phần lớn những người sử dụng thông tin trên báo cáo tài chính sẽ
không được xét đến.
03. Các khái niệm về mức trọng yếu, nếu quy định trong khuôn khổ về lậptrình bày
báo cáo tài chính, sẽ sở cho kiểm toán viên xác định mức trọng yếu của cuộc kiểm
toán. Nếu khuôn khổ về lập trình bày báo cáo tài chính không đưa ra khái niệm về
mức trọng yếu, các đặc tính được u trong đoạn 02 Chuẩn mực này sẽ giúp kiểm toán
viên có cơ sở để xác định mức trọng yếu.
04. Việc xác định mức trọng yếu của kiểm toán viên mang tính xét đoán chuyên môn và
phụ thuộc vào nhận thức của kiểm toán viên về nhu cầu của người sử dụng thông tin trên
báo cáo tài chính. Trong trường hợp y, kiểm toán viên có thể giả định rằng, người sử
dụng báo cáo tài chính:
(a) sự hiểu biết hợp về hoạt động kinh doanh, về kinh tế tài chính, kế toán
quan tâm nghiên cứu thông tin trên báo cáo tài chính với sự cẩn trọng một cách hợp lý;
(b) Hiểu rằng o cáo tài chính được lập, trình bày được kiểm toán trên sở mức
trọng yếu;
1
(c) Nhận thức được tính không chắc chắn tiềm tàng trong việc xác định giá trị do việc sử
dụng các ước tính kế toán, các xét đoán và yếu tố của các sự kiện xảy ra trong tương lai;
(d) Đưa ra các quyết định kinh tế hợp lý trên cơ sở các thông tin trên báo cáo tài chính.
05. Kiểm toán viên phải áp dụng khái niệm mức trọng yếu cả khi lập kế hoạch kiểm
toán thực hiện cuộc kiểm toán, khi đánh giá ảnh hưởng của các sai sót đã phát hiện
trong quá trình kiểm toán, kể cả ảnh hưởng của những sai sót chưa được điều chỉnh (nếu
có) đối với báo cáo tài chính và khi hình thành ý kiến kiểm toán (xem hướng dẫn tại đoạn
A1 Chuẩn mực này).
06. Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên đưa ra cáct đoán về quy của các
sai sót sẽ được coi là trọng yếu. Các xét đoán này cung cấp cơ sở cho việc:
(a) Xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục đánh giá rủi ro;
(b) Nhận biết và đánh giá các rủi ro có sai sót trọng yếu;
(c) Xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán tiếp theo.
Khi lập kế hoạch kiểm toán, mức trọng yếu được xác định không nhất thiết phải mức
giá trị mà dưới mức đó, các sai sót không được điều chỉnh, khi xét riêng lẻ hoặc tổng hợp
lại, luôn được đánh giá là không trọng yếu. Trong một số trường hợp cụ thể, sai sót có thể
được đánh giá là trọng yếu mặc giá trị của sai sót đó thấp hơn mức trọng yếu. Mặc
khó thể thiết lập được các thủ tục kiểm toán để phát hiện các sai sót riêng lẻ tính
trọng yếu do bản chất của sai sót nhưng khi đánh giá ảnh hưởng của các sai sót không
được điều chỉnh đối với báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải xem xét đồng thời cả quy
bản chất của sai sót cũng như tình huống cụ thể xảy ra các sai sót đó (xem hướng
dẫn tại đoạn A16 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 450).
07. Kiểm toán viên doanh nghiệp kiểm toán phải tuân thủ các quy định của Chuẩn
mực này trong quá trình kiểm toán báo cáo tài chính.
Đơn vị được kiểm toán (khách hàng) phải những hiểu biết nhất định về Chuẩn mực
này để phối hợp công việc xử các mối quan hệ liên quan đến việc xác định mức
trọng yếu của các thông tin đã được kiểm toán.
Mục tiêu
08. Mục tiêu của kiểm toán viên doanh nghiệp kiểm toán áp dụng khái niệm mức
trọng yếu một cách phù hợp khi lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán.
Giải thích thuật ngữ
09. Trong các chuẩn mực kiểm toán Việt Nam, các thuật ngữ dưới đây được hiểu như
sau:
(a) Trọng yếu: thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin (một
số liệu kế toán) trong báo cáo tài chính. Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa nếu
thiếu thông tin đó hoặc thiếu tính chính xác của thông tin đó sẽ ảnh hưởng đến các quyết
định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính;
2
(b) Mức trọng yếu: một mức giá trị do kiểm toán viên xác định tùy thuộc vào tầm
quan trọng và tính chất của thông tin hay sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể.
Mức trọng yếu một ngưỡng, một điểm chia cắt chứ không phải nội dung của thông
tin cần phải có. Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét cả trên phương diện định
lượng và định tính;
(c) Mức trọng yếu thực hiện: một mức giá trị hoặc các mức giá trị do kiểm toán
viên xác định mức thấp hơn mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính nhằm
giảm khả năng sai sót tới một mức độ thấp hợp để tổng hợp ảnh hưởng của các sai sót
không được điều chỉnh không được phát hiện không vượt quá mức trọng yếu đối với
tổng thể báo cáo tài chính. Trong một số trường hợp, “mức trọng yếu thực hiện” thể
hiểu mức giá trị hoặc các mức giá trị do kiểm toán viên xác định thấp hơn mức hoặc
các mức trọng yếu của một nhóm các giao dịch, số tài khoản hoặc thông tin thuyết
minh trên báo cáo tài chính.
II/ NỘI DUNG CHUẨN MỰC
Yêu cầu
Xác định mức trọng yếu và mức trọng yếu thực hiện khi lập kế hoạch kiểm toán
10. Khi lập chiến lược kiểm toán tổng thể, kiểm toán viên phải xác định mức trọng yếu
đối với tổng thể báo cáo tài chính. Trong những trường hợp cụ thể của đơn vị được kiểm
toán, nếu một hoặc một số nhóm các giao dịch, số tài khoản hoặc thông tin thuyết
minh (nếu xét riêng lẻ) sai sót với mức thấp hơn mức trọng yếu đối với tổng thể báo
cáo tài chính nhưng có thể ảnh hưởng (nếu xét tổng thể) đến quyết định kinh tế của người
sử dụng báo cáo tài chính, thì kiểm toán viên phải xác định mức trọng yếu hoặc các mức
trọng yếu áp dụng cho từng nhóm giao dịch, số tài khoản hay thông tin thuyết minh
(xem hướng dẫn tại đoạn A2 – A11 Chuẩn mực này).
11. Kiểm toán viên phải xác định mức trọng yếu thực hiện cho mục đích đánh giá các
rủi ro sai sót trọng yếu xác định nội dung, lịch trình, phạm vi của các thủ tục kiểm
toán tiếp theo trong quá trình kiểm toán (xem hướng dẫn tại đoạn A12 Chuẩn mực này).
Sửa đổi mức trọng yếu trong quá trình kiểm toán
12. Kiểm toán viên phải sửa đổi mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính
mức trọng yếu hoặc các mức trọng yếu cho các nhóm giao dịch, số tài khoản hay
thông tin thuyết minh trong trường hợp kiểm toán viên thêm thông tin trong quá trình
kiểm toán thể dẫn đến việc thay đổi mức trọng yếu hoặc các mức trọng yếu so với
mức xác định trước đó (xem hướng dẫn tại đoạn A13 Chuẩn mực này).
13. Nếu kiểm toán viên kết luận rằng việc áp dụng một mức trọng yếu thấp hơn mức
trọng yếu đã xác định trước đó đối với tổng thể báo cáo tài chính mức trọng yếu hoặc
các mức trọng yếu cho các nhóm giao dịch, số tài khoản hay thông tin thuyết minh
phù hợp thì kiểm toán viên phải xác định xem có cần phải sửa đổi lại mức trọng yếu thực
hiện, xem nội dung, lịch trình phạm vi của các thủ tục kiểm toán tiếp theo còn
phù hợp hay không.
3
Tài liệu, hồ sơ kiểm toán
14. Kiểm toán viên phải lưu trong hồ sơ kiểm toán các số liệu và cơ sở xác định về mức
trọng yếu sau (xem đoạn 08 – 11 và đoạn A6 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 230):
(a) Mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính (xem đoạn 10 Chuẩn mực này);
(b) Mức trọng yếu hoặc các mức trọng yếu cho các nhóm giao dịch, số dư tài khoản hay
thông tin thuyết minh (xem đoạn 10 Chuẩn mực này);
(c) Mức trọng yếu thực hiện (xem đoạn 11 Chuẩn mực này);
(d) Những sửa đổi của các mức trọng yếu từ mục (a) đến mục (c) nêu trên trong quá
trình thực hiện cuộc kiểm toán (xem đoạn 12 – 13 Chuẩn mực này).
III/ HƯỚNG DẪN ÁP DỤNG
Khi thực hiện Chuẩn mực này cần tham khảo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200.
Mức trọng yếu và rủi ro kiểm toán (hướng dẫn đoạn 05 Chuẩn mực này)
A1. Khi thực hiện một cuộc kiểm toán báo cáo tài chính, mục tiêu tổng thể của kiểm toán
viên (1) đạt được sự đảm bảo hợp rằng liệu báo cáo tài chính, xét trên phương diện
tổng thể, còn sai sót trọng yếu do gian lận hoặc nhầm lẫn hay không, từ đó giúp kiểm
toán viên đưa ra ý kiến về việc liệu báo cáo tài chính có được lập phù hợp với khuôn khổ
về lập và trình bày báo cáo tài chính được áp dụng trên các khía cạnh trọng yếu hay chưa;
(2) lập báo cáo kiểm toán về báo o tài chính trao đổi thông tin theo quy định của
chuẩn mực kiểm toán, phù hợp với các phát hiện của kiểm toán viên (xem đoạn 11 Chuẩn
mực kiểm toán Việt Nam số 200). Kiểm toán viên đạt được sự đảm bảo hợp lý bằng cách
thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để giảm rủi ro kiểm toán tới mức
thấp có thể chấp nhận được theo quy định tại đoạn 17 Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số
200. Rủi ro kiểm toán là rủi ro mà kiểm toán viên đưa ra ý kiến kiểm toán không phù hợp
khi báo cáo tài chính còn chứa đựng sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm rủi ro có
sai sót trọng yếu rủi ro phát hiện (theo quy định tại đoạn 13(c) Chuẩn mực kiểm toán
Việt Nam số 200). Mức trọng yếu rủi ro kiểm toán cần được xem xét trong suốt quá
trình kiểm toán, khi:
(a) Xác định đánh giá rủi ro sai sót trọng yếu (xem Chuẩn mực kiểm toán Việt
Nam số 315);
(b) Xác định nội dung, lịch trình và phạm vi của các thủ tục kiểm toán tiếp theo cần thực
hiện (xem Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 330);
(c) Đánh giá ảnh hưởng của các sai sót chưa được điều chỉnh (nếu có) trên báo cáo tài
chính (xem Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 450) và hình thành ý kiến kiểm toán (xem
Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 700).
4
Xác định mức trọng yếu và mức trọng yếu thực hiện khi lập kế hoạch kiểm toán
Lưu ý khi kiểm toán các đơn vị trong lĩnh vực công (hướng dẫn đoạn 10 Chuẩn mực này)
A2. Đối với các đơn vị trong lĩnh vực công, quan quản nhà nước đối tượng chủ
yếu sử dụng báo cáo tài chính. Đồng thời,o cáo tài chính thể được quan quản
nhà nước sử dụng để đưa ra các quyết định khác ngoài các quyết định kinh tế. Do đó, việc
xác định mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính và mức trọng yếu hay các mức
trọng yếu cho nhóm các giao dịch, số tài khoản thông tin thuyết minh trong cuộc
kiểm toán báo cáo tài chính của các đơn vị trong lĩnh vực công chịu ảnh hưởng bởi pháp
luật, các quy định nhu cầu sử dụng thông tin i chính của quan quản nhà nước
và công chúng liên quan đến các chương trình của lĩnh vực công.
Sử dụng tiêu chí để xác định mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính (hướng dẫn
đoạn 10 Chuẩn mực này)
A3. Việc xác định mức trọng yếu đòi hỏi các xét đoán chuyên môn. Thông thường, kiểm
toán viên sử dụng một tỷ lệ phần trăm (%) áp dụng cho một tiêu chí được lựa chọn làm
điểm khởi đầu trong việc xác định mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính. Các
yếu tố có thể ảnh hưởng đến việc xác định tiêu chí phù hợp bao gồm:
(1) Các yếu tố của báo cáo i chính (ví dụ tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn, doanh
thu, chi phí);
(2) Các khoản mục trên báo cáo tài chính mà người sử dụng thường quan tâm (ví dụ,
để đánh giá tình hình hoạt động, người sử dụng báo cáo tài chính thường quan tâm đến
các khoản mục lợi nhuận, doanh thu hoặc tài sản ròng);
(3) Đặc điểm hoạt động kinh doanh của đơn vị được kiểm toán, đặc điểm ngành
nghề và môi trường kinh doanh mà đơn vị đang hoạt động;
(4) Cơ cấu sở hữu vốn của đơn vị được kiểm toán và cách thức đơn vị huy động vốn
(ví dụ, nếu đơn vị hoạt động kinh doanh chủ yếu bằng nguồn vốn vay thì người sử dụng
báo cáo tài chính thể quanm nhiều hơn đến tài sản quyền của chủ nợ đối vớii
sản này hơn là quan tâm đến lợi nhuận của đơn vị);
(5) Khả năng thay đổi tương đối của tiêu chí đã được xác định.
A4. Một số dụ về các tiêu chí phù hợp, tùy thuộc vào từng trường hợp của đơn vị
được kiểm toán, thể bao gồm các khoản mục thu nhập được báo cáo như lợi nhuận
trước thuế, tổng doanh thu, lợi nhuận gộp tổng chi phí, tổng vốn chủ sở hữu giá trị
tài sản ròng. Lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục thường được sử dụng
cho các đơn vị hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận. Khi lợi nhuận trước thuế dễ bị biến động,
các tiêu chí khác có thể sẽ phù hợp hơn như lợi nhuận gộp hoặc tổng doanh thu.
A5. Liên quan đến các tiêu chí đã được lựa chọn, các dữ liệu tài chính phù hợp thường
bao gồm các số liệu về kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của các kỳ trước, các số
liệu về kết quả kinh doanh tình hình tài chính lũy kế đến kỳ này, kế hoạch hay dự
5
đoán cho kỳ hiện tại, được điều chỉnh khi có biến động lớn theo từng trường hợp của đơn
vị được kiểm toán (ví dụ, một giao dịch hợp nhất kinh doanh lớn) những thay đổi liên
quan trong ngành nghề hay môi trường kinh doanh đơn vị đang hoạt động. Ví dụ, khi
ở điểm khởi đầu, mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo tài chính được xác định cho một
đơn vị cụ thểmức một tỷ lệ phần trăm nhất định trên lợi nhuận trước thuế từ hoạt động
kinh doanh liên tục. Khi các biến động bất thường làm tăng hoặc giảm đáng kể lợi
nhuận trước thuế, kiểm toán viên có thể xác định mức trọng yếu đối với tổng thể báo cáo
tài chính bằng cách sử dụng một mức lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên
tục đã loại trừ ảnh hưởng của các biến động bất thường, dựa vào kết quả kinh doanh của
các kỳ trước.
A6. Mức trọng yếu phải được xác định gắn liền với báo cáo tài chính kiểm toán viên
thực hiện kiểm toán. Khi báo cáo i chính được lập cho kỳ kế toán dài hơn hoặc ngắn
hơn 12 tháng, dụ đối với một số đơn vị mới thành lập hoặc thay đổi kỳ kế toán, mức
trọng yếu cần phải được xác định dựa trên báo cáo tài chính được lập cho kỳ kế toán đó.
A7. Kiểm toán viên phải sử dụng xét đoán chuyên môn khi xác định tỷ lệ phần trăm (%)
áp dụng cho tiêu chí đã lựa chọn. Tỷ lệ phần trăm (%) tiêu cđược lựa chọn thường
mối liên hệ với nhau, như tỷ lệ phần trăm (%) áp dụng cho mức lợi nhuận trước thuế
từ hoạt động kinh doanh liên tục thường cao hơn tỷ lệ phần trăm (%) áp dụng cho doanh
thu. Ví dụ, kiểm toán viên có thể cân nhắc mức năm phần trăm (5%) trên lợi nhuận trước
thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục đối với đơn vị hoạt động mục tiêu lợi nhuận,
trong khi đó kiểm toán viên có thể cân nhắc tỷ lệ một phần trăm (1%) trên tổng doanh thu
hoặc chi phí phù hợp đối với đơn vị hoạt động phi lợi nhuận. Tuy nhiên, tỷ lệ phần
trăm cao hơn hoặc thấp hơn có thể được coi là phù hợp tùy theo từng trường hợp cụ thể.
Lưu ý khi kiểm toán các đơn vị nhỏ
A8. Khi lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh liên tục của một đơn vị hoạt động
mục tiêu lợi nhuận thường xuyên mức thấp, thể do Giám đốc đồng thời người
chủ sở hữu doanh nghiệp đã thu lại phần lớn lợi nhuận trước thuế dưới dạng tiền lương và
các khoản thu nhập khác thì tiêu chí lựa chọn để xác định mức trọng yếu lợi nhuận
trước tiền lương, các khoản thu nhập khác và thuế có thể sẽ phù hợp hơn.
Lưu ý khi kiểm toán các đơn vị trong lĩnh vực công
A9. Khi kiểm toán các đơn vị trong lĩnh vực công, tổng chi phí hoặc chi phí thuần (chi
phí trừ thu nhập) có thể là tiêu chí phù hợp cho hoạt động của từng chương trình. Khi đơn
vị hoạt động trong lĩnh vực công có quản lý tài sản công, tài sản có thể là tiêu chí phù hợp
để xác định mức trọng yếu.
Mức trọng yếu hay các mức trọng yếu cho các nhóm giao dịch, số tài khoản hay
thông tin thuyết minh (hướng dẫn đoạn 10 Chuẩn mực này)
A10. Các yếu tố có thể dẫn đến sự tồn tại của một hoặc một số nhóm các giao dịch, số dư
tài khoản hay thông tin thuyết minh theo đó, các sai sót mặc thấp hơn mức trọng
6
thông tin tài liệu
Chuẩn mực kiểm toán số 320: Mức trọng yếu trong lập kế hoạch và thực hiện kiểm toán (Ban hành kèm theo Thông tư số 214/2012/TT-BTC ngày 06 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài chính) I/ QUY ĐỊNH CHUNG Phạm vi áp dụng 01. Chuẩn mực kiểm toán này quy định và hướng dẫn trách nhiệm của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán (sau đây gọi là “kiểm toán viên”) trong việc áp dụng khái niệm “mức trọng yếu” trong lập kế hoạch và thực hiện cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 450 hướng dẫn cách áp dụng mức trọng yếu trong việc đánh giá ảnh hưởng của các sai sót được phát hiện đối với cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hưởng của những sai sót chưa được điều chỉnh (nếu có) đối với báo cáo tài chính. Mức trọng yếu trong kiểm toán 02. Các khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính đã quy định và hướng dẫn về khái niệm mức trọng yếu trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Mặc dù khuôn khổ về lập và trình bày báo cáo tài chính có đề cập đến khái niệm mức trọng yếu theo các thuật ngữ khác nhau, nhưng nhìn chung, mức trọng yếu được hiểu như sau: – Những sai sót, bao gồm cả việc bỏ sót, được coi là trọng yếu nếu những sai sót này, khi xét riêng lẻhoặc tổng hợp lại, được xem xét ở mức độ hợp lý, có thể gây ảnh hưởng tới quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính;
Mở rộng để xem thêm
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×