
khi lấy mẫu kiểm toán, kiểm toán viên cần thực hiện các thủ tục kiểm toán để thu thập
bằng chứng chứng minh rằng tổng thể được lấy mẫu là đầy đủ.
A6. Theo quy định tại đoạn 06 Chuẩn mực này, khi xem xét mục đích của thủ tục kiểm
toán, kiểm toán viên cần hiểu rõ thế nào là sai lệch hoặc sai sót, để đảm bảo tất cả và chỉ
những yếu tố liên quan đến mục đích của thủ tục kiểm toán đã được xem xét khi đánh giá
sai lệch hoặc dự tính sai sót. Ví dụ, khi kiểm tra chi tiết về tính hiện hữu của các khoản
phải thu bằng cách gửi thư xác nhận, nếu khách hàng của đơn vị đã thanh toán trước ngày
xác nhận nhưng đơn vị lại nhận được tiền ngay sau ngày đó thì trường hợp này không
được xem là sai sót. Tương tự, việc ghi nhầm khoản phải thu giữa khách hàng này với
khách hàng khác không làm ảnh hưởng tới tổng số dư các khoản phải thu. Do đó, khi
đánh giá kết quả mẫu của thủ tục kiểm toán cụ thể này, có thể không phù hợp nếu coi đây
là một sai sót, mặc dù nó có thể có ảnh hưởng quan trọng tới các phần hành khác của
cuộc kiểm toán, như đánh giá rủi ro có gian lận hoặc sự đầy đủ của dự phòng nợ phải thu
khó đòi.
A7. Đối với thử nghiệm kiểm soát, khi xem xét các tính chất của một tổng thể, kiểm
toán viên cần đánh giá tỷ lệ sai lệch kỳ vọng dựa trên hiểu biết của kiểm toán viên về các
kiểm soát liên quan hoặc dựa trên việc kiểm tra một số ít các phần tử trong tổng thể.
Đánh giá này được thực hiện nhằm thiết kế mẫu kiểm toán và xác định cỡ mẫu. Ví dụ,
nếu tỷ lệ sai lệch kỳ vọng cao hơn mức có thể chấp nhận được, kiểm toán viên thường
quyết định không tiến hành các thử nghiệm kiểm soát. Tương tự, đối với kiểm tra chi tiết,
kiểm toán viên cần đánh giá sai sót dự kiến của tổng thể. Nếu mức sai sót dự kiến là cao,
kiểm toán viên có thể phải kiểm tra 100% số phần tử hoặc sử dụng cỡ mẫu lớn khi thực
hiện kiểm tra chi tiết.
A8. Khi xem xét các tính chất của một tổng thể được lấy mẫu, kiểm toán viên có thể
quyết định sử dụng phương pháp phân nhóm hay lựa chọn các phần tử có giá trị lớn cho
phù hợp. Phụ lục 01 của Chuẩn mực này hướng dẫn chi tiết hơn về phương pháp phân
nhóm hoặc lựa chọn thiên về các phần tử có giá trị lớn.
A9. Kiểm toán viên sử dụng xét đoán của mình để quyết định sử dụng phương pháp lấy
mẫu thống kê hay phi thống kê. Tuy nhiên, cỡ mẫu không phải là tiêu chí để phân biệt
giữa phương pháp thống kê và phi thống kê.
Cỡ mẫu (hướng dẫn đoạn 07 Chuẩn mực này)
A10. Cỡ mẫu là số lượng các phần tử trong tổng thể được lựa chọn theo tiêu thức nhất
định vào mẫu để kiểm tra. Mức độ rủi ro lấy mẫu mà kiểm toán viên có thể chấp nhận
ảnh hưởng tới cỡ mẫu yêu cầu. Mức độ rủi ro mà kiểm toán viên có thể chấp nhận càng
thấp thì cỡ mẫu cần thiết sẽ càng lớn.
A11. Cỡ mẫu có thể được xác định thông qua các tính toán thống kê hoặc dựa trên xét
đoán chuyên môn của kiểm toán viên. Phụ lục 02 và 03 của Chuẩn mực này nêu ra các
ảnh hưởng đặc trưng của các yếu tố khác nhau tới việc xác định cỡ mẫu. Trong các hoàn
cảnh giống nhau, ảnh hưởng của các yếu tố lên cỡ mẫu như đề cập tới trong Phụ lục 02
và 03 sẽ tương tự nhau cho dù lựa chọn phương pháp thống kê hay phi thống kê.
5