DANH MỤC TÀI LIỆU
Đề tài: Ngành bảo hiểm, bảo hiểm thân tàu và khả năng áp dụng mô hình định phí để định phí BH thân tàu tại VN
Lời mở đầu
Trong những năm qua, hoạt động của các công ty bảo hiểm Việt Nam
đã không ngừng đổi mới cả về chất lượng, góp phần quan trọng vào sự
nghiệp đổi mới của bảo hiểm nói riêng, sự nghiệp đổi mới phát triển nền
kinh tế Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, thực tế hoạt động của các công ty bảo
hiểm Việt Nam cũng bộc lộ không ít tồn tại, hạn chế. Trước hết chưa đáp
ứng tốt nhu cầu của nền kinh tế, hiệu quả kinh doanh chưa cao, còn tiềm ẩn
nhiều rủi ro rủi ro chưa được hạn chế mức hợp lý. Trong xu hướng hội
nhập quốc tế, các thị trường tài chính ngày càng phát triển, mở rộng, mức độ
cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm trên thị trường quốc tế, ngay cả thị
trường nội địa tăng nhanh. Trong điều kiện kinh doanh mới, thị trường luôn
sôi độngbiến động khó lường, nâng cao năng lực quản trị rủi ro đòi hỏi
cấp thiết để các công ty bảo hiểm Việt Nam duy trì được thường xuyên tình
trạng cân đối giữa nhu cầu khả năng được nguồn vốn trong mọi điều
kiện để đảm bảo sự ổn định, vững chắc về tài chính cho công ty bảo hiểm
làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng, đảm bảo cho nhu cầu phát triển của
nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế.
Qua quan sát thực tế, cùng với sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của thầy giáo
các anh chị Phòng kinh doanh II của công ty bảo hiểm Viễn Đông chi
nhánh Hà Nội, đã giúp cho em hiểu rõ hơn về hoạt động của công ty bảo hiểm
những vấn đề về định phí bảo hiểm công ty bảo hiểm viễm đông đang
gặp phải, từ đó đã giúp cho em định hướng được đề tài thực tập của mình.
Nguyễn Văn Tuyến Lớp: Toán tài chính
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM
I. GIỚI THIỆU VỀ BẢO HIỂM.
1. Các định nghĩa về bảo hiểm
nhiều địmh nghĩa khác nhau về bảo hiểm mỗi định nghĩa đều đứng
trên góc độ nghiên cứu khác nhau:
“ Bảo hiểm là một phương pháp lập quỹ dự trữ bằng tiền do những người
cùng khả năng gặp một loại rủi ro nào đó đóng góp tạo nên”. Đinh nghĩa
này chỉ mới đề cập đến phương pháp lập quỹ dự trữ bảo hiểm, chưa
phương thức sử dụng nó.
“Bảo hiểm hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường
(theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra
rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản
phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba”. Điều này có nghĩa là người tham
gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình
thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo
hiểm lấy quỹ dữ trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm
cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm những rủi ro người tham gia
đăng ký với người bảo hiểm.
Đây định nghĩa mang tính chung nhất của bảo hiểm. định nghĩa
mang tính đặc trưng riêng của một loại bảo hiểm. Chẳng hạn “Bảo hiểm
hội sự đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động và gia đình họ khi có
nguy mất an toàn về kinh tế do bị giảm hoặc mất khả năng lao động thông
qua nguồn quỹ huy động từ người than gia sự hỗ trợ của nhà nước”. Định
nghĩa này chỉ rõ mục đích của bảo hiểm xã hội là đảm bảo đời sống cho người
lao động gia đình họ thông qua sử dụng quỹ huy động từ người tham gia
(người sử dụng lao động và người lao động) và sự tài trợ của Nhà nước để trợ
Nguyễn Văn Tuyến Lớp: Toán tài chính
cấp cho người lao động bị giảm sức lao động (do ốm đau, tai nạn lao động
bệnh nghề nghiệp…), hoặc mất sức lao động ( hết tuổi lao động).
2. Bản chất của bảo hiểm
Mục đích chủ yếu của bảo hiểm góp phần ổn định kinh tế cho người
tham gia từ đó khôi phục và phát triển sản xuất, đời sống, đồng thời tạo nguồn
vốn cho phát triển kinh tế và xã hội của đất nước.
Thực chất của hoạt động bảo hiểm quá trình phân phối lại tổng sản
phẩm trong nước giữa những người tham gia nhằm đáp ứng nhu cầu tài chính
phát sinh khi tai nạn, rủi ro bất ngờ xảy ra gây tổn thất đối với người tham gia
bảo hiểm.
Phân phối trong bảo hiểm phân phối không đều, không bằng nhau,
nghĩa là không phải ai tham gia cũng được phân phối và phân phối với số tiền
như nhau. Phân phối trong bảo hiểm là phân phối cho số ít người than gia bảo
hiểm không may gặp rủi ro bất ngờ gây thiệt hại đến sản xuất và đời sống trên
sở mức thiệt hại thực tế điều kiện bảo hiểm. Điều đó cũng nghĩa,
phân phối trong bảo hiểm không mang tính bồi hoàn, tức tham gia
đóng góp vào quỹ bảo hiểm nhưng không tổn thất thì không được phân phối
(trừ một số bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hưu trí).
Hoạt động bảo hiểm dựa trên nguyên tắc “Số đông bù số ít”. Nguyên tắc
này được quán triệt trong quá trình lập quỹ dự trù bảo hiểm cũng như quá
trình phân phối bồi thường, quá trình phân tán rủi ro.
Hoạt động bảo hiểm còn liên kết, gắn các thành viên trong hội
cùng vì lợi ích chungcủa cộng đồng, vì sự ổn định, sự phồn vinh của đất nước.
Bảo hiểm với nguyên tắc “Số đông bù số ít” cũng thể hiện tính tương trợ, tính
xã hội và nhân văn sâu sắc của xã hội trước rủi ro của từng thành viên.
3.Sơ lược lịch sử ra đời và phát triển của ngành Bảo hiểm
3.1.Lịch sử ra đời
Bảo hiểm nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử nền văn minh nhân
Nguyễn Văn Tuyến Lớp: Toán tài chính
loại mà thậm chí cho tới giờ người ta vẫn chưa xác định được bảo hiểm ra đời
từ khi nào. Chúng ta có thể dễ dàng tìm được phế tích của những ngôi nhà, tác
phẩm nghệ thuật hoặc những dấu ch còn sót lại của các nền văn minh xưa
kia, tuy nhiên việc tái lập một cách chính xác cách thức mà những thị dân đầu
tiên đã sử dụng để tổ chức các hoạt động dịch vụ trong nền kinh tế lại một
điều khó khăn hơn nhiều. Tuy nhiên, trong số những dấu tích vật chất của văn
minh thời Tiền sử, thời Cổ đại, thời Trung cổ thời Cận đại, các kho lúa
nơi mọi người dự trữ lương thực để sử dụng trong trường hợp khẩn cấp. Câu
chuyện trong kinh thánh Joseph giải thích giấc của vua Ai Cập một
dụ minh hoạ nguyên tắc người ta đã áp dụng để tổ chức dịch vụ nói trên.
Kinh nghiệm cho thấy rằng đôi khi cũng xảy ra mất mùa hoặc quân xâm lược
ngăn cản người dân của một thành phố thu hoạch của vùng nông thôn xung
quanh. Mặc dù mỗi hộ gia đình có thể tự dự phòng cho những trường hợp xấu
nói trên, tuy nhiên, những thị dân sớm nhận ra rằng việc dự trữ chung theo
từng cộng đồng hiệu quả hơn. Mỗi người khả năng đóng một khoản
thuế nhỏ trong những năm đựơc mùa, khi giá lương thực xuống thấp. Người
ta thực hiện việc thu mua lương thực thể dự trữ được chủ yếu lúa mỳ.
Nông dân thấy hài lòng do họthể bán được nhiều hơn (với giá cao hơn) so
với khi cơ quan thuế không thực hiện việc thu mua lương thực trên thị trường.
Khi gặp mất mùa, hoặc khi thành phố bị vây hãm, quan thuế sẽ xuất
ra lương thực dự trữ để nuôi sống dân thành phố. vậy ý tưởng về việc
thành lập một quỹ chung (trong trường hợp này là quỹ lương thực) đã xuất
hiện trong tiềm thức con người. ý tưởng này tỏ ra rất phù hợp đặc biệt là cùng
với sự xuất hiên khái niệm rủi ro.
Vào cuối thế kỷ XV khi Châu Âu thực hiện những chuyến đi khai phá
tới Châu A Châu Mỹ, mở đường cho cái gọi ‘cuộc cách mạng thương
mại’ (xảy ra trước ‘cuộc cách mạng công nghiệp’ nổi tiếng), ý tưởng về rủi ro
thành lập một quỹ chung đã xuất hiện cùng một lúc. Nếu một đội tàu nhỏ
Nguyễn Văn Tuyến Lớp: Toán tài chính
tìm cách đi Châu Âu tới Indonexia, mua bán hàng hoá tại đó trở về với
nhiều loại hàng hoá hấp dẫn, song lại có rủi ro là một số tàu không hoàn thành
chuyến trở về. Một số tàu thể bị chìm do bão tố; cạn kiệt nguồn cung cấp
(hoặc đội thuỷ thủ chết bệnh tật); lạc đường; bị chìm do quá tải, hoặc bị
mối ăn thủng. Những người tham gia đầu vào chuyến đi mạo hiểm đó đã
cảm thấy sự cần thiết phải cùng nhau chia sẽ rủi ro để tránh tình trạng một số
nhà đầu tư bị mất trắng khoản đầu tư của mình do một hiện tượng ngẫu nhiên
đã khiến cho những con tầu của họ bị mất tích. Người ta đã m ra hai cách
nhằm đáp ứng nhu cầu này. Cách thứ nhất là thành lập một liên doanhgóp
vốn cổ phần theo đó, một nhóm nhà đầu cũng đầu vào đội thuyền chở
hàng chung, cùng chia sẽ rủi ro khi xảy ra tổn thất và phân chia lợi nhuận
liên doanh thu được. Cách thứ hai bảo hiểm, một hệ thống mà theo đó, chủ
tàu hay chủ hàng (có thể một nhân hay một công ty) đề nghị trả một số
tiền mặt cho những người khác nếu những người này đồng ý sẽ bồi thường
cho các chủ hàng thuộc con tàu khi tàu đã nêu tên không hoàn thành một
chuyến đi cụ thể nào đó. Theo các thức này, thay cho sự phát triển trong cạnh
tranh, việc chung vốn bảo hiểm đã bổ sung cho nhau. Một số nhân hay
công ty thu phí bảo hiểm bằng tiền mặt để đổi lấy một cam kết sẽ bồi thường
cho chủ tàu trong trường hợp tàu bị mất tích. Những bảo hiểm này đã tạo lập
một quỹ chung họ cam kết sử dụng để thanh toán cho người được bảo
hiểm khi xảy ra tổn thất.
Vào thời kỳ đầu, người nhận bảo hiểm phải bán một số tài sản (hoặc rút
tiền từ tài khoản ngân hàng) để thanh toán bồi thường cho người được bảo
hiểm khi tổn thất xảy ra. Nguyên tắc này vẫn được áp dụng tại Lloy’ds
Luân Đôn nơi đây hình thành cam kết thanh toán bồi thường vẫnsở của
hợp đồng. Các nhân tên tại Lloyd’s cam kết bồi thường bằng tiền của
chính mình khi những rủi ro họ nhận bảo hiểm xảy ra. Thuật ngữ ‘khai thác
bảo hiểm’ mang nghĩa chính xác của từ: Người ta soạn ra một văn bản nêu
Nguyễn Văn Tuyến Lớp: Toán tài chính
rủi ro (sự kiện được bảo hiểm, hoàn cảnh, thời gian bảo hiểm) người nhận
bảo hiểm (hoặc đại diện của mình) ghi dưới những điều đã liệt đó, tỷ lệ
rủi ro mà người đó sẵn sàng nhận.
3.2. Qúa trình phát triển
Vào thời gian đầu, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của công ty bảo hiểm
bảo hiểm hoả hoạn. Tại những thành phố đông đúc của thế kỷ XVII, hầu hết
nhà cửa đều dựng bằng gỗ, người ta dùng lửa để sưởi, đun nấu dùng để
chiếu sáng. vậy rủi ro nhà bắt lửa rất cao. Trong cộng đồng làng trước
khi diễn ra quá trình đô thị hoá, khi một ngôi nhà bị cháy rụi, tất cả những
người hàng xóm sẽ hợp sức với nhau để giúp xây lại ngôi nhà. Nguyên tắc trợ
giúp tương hỗ trực tiếp được áp dụng. Ngược lại thành phố, do hàng xóm
của gia đình nhà bị cháy đều những nghề nghiệp chuyên môn riêng (ví
dụ như thợ dệt, thợ giầy, thư ký…), họ không có khả năng cũng như thời gian
để giúp hàng xóm xây lại những ngôi nhà trong trường hợp xảy ra hoả hoạn.
Thay vào đó họ đóng phí bảo hiểm cho một công ty bảo hiểm để nhận được
hai cam kết: cung cấp một dịch vụ cứu hoả (chẳng hạn như dập lửa, ngăn
không cho lan sang nhà khác hạn chế đến mức thấp nhất mức độ thiệt hại
do vụ cháy gây ra),bồi thường bằng tiền mặt cho người được bảo hiểm để
tạo điều kiện cho họ được thuê mướn những thợ chuyên môn cần thiết sửa
chữa lại hư hỏng của ngôi nhà.
Thuật ngữ bồi thường đã được sử dụng nhiều lần sẽ được giải thích
hơn phần sau. Trong bảo hiểm phi nhân thọ, thuật ngữ này nghĩa
đảm bảo cho người được bảo hiểm có tình hình tài chính như thế khi rủi ro
được bảo hiểm không xảy ra; sao cho xấu hơn cũng như không tốt hơn. Mục
đích của việc bồi thường khôi phục lại (càng sát càng tốt) tình trạng như
trước khi xảy ra rủi ro. Ngoài việc thanh toán bằng tiền mặt, công ty bảo hiểm
còn có những khả năng lựa chọn khác.
Cùng với bảo hiểm hoả hoạn, các quỹ bảo hiểm nhân thọ cũng xuất hiện.
Nguyễn Văn Tuyến Lớp: Toán tài chính
thông tin tài liệu
“Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người bảo hiểm cam kết bồi thường (theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba”. Điều này có nghĩa là người tham gia chuyển giao rủi ro cho người bảo hiểm bằng cách nộp khoản phí để hình thành quỹ dự trữ. Khi người tham gia gặp rủi ro dẫn đến tổn thất, người bảo hiểm lấy quỹ dữ trữ trợ cấp hoặc bồi thường thiệt hại thuộc phạm vi bảo hiểm cho người tham gia. Phạm vi bảo hiểm là những rủi ro mà người tham gia đăng ký với người bảo hiểm.
Mở rộng để xem thêm
tài liệu giúp tôi
Nếu bạn không tìm thấy tài liệu mình cần có thể gửi yêu cầu ở đây để chúng tôi tìm giúp bạn!
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×