DANH MỤC TÀI LIỆU
Giai pháp cho thất nghiệp
MỞ ĐẦU
Thất nghiệp, trong kinh tế học, tình trạng người lao động
muốn việc làm không tìm được việc làm (từ Hán-Việt thất:
mất mát, nghiệp: việc làm). Tỷ lệ thất nghiệp phần trăm số
người lao động không việc làm trên tổng số lực lượng lao động
xã hội.
Số người không việc
làm Tỷ lệ thất nghiệp = 100% x
Tổng số lao động xã hội
Không việc làm đồng nghĩa với hạn chế giao tiếp với
những người lao động khác, tiêu tốn thời gian nghĩa, không
khả năng chi trả, mua sắm vật dụng thiết yếu cũng như các hàng
hóa tiêu dùng. Yếu tố sau cùng trầm trọng cho người gánh
vác nghĩa vụ gia đình, nợ nần, chi trả chữa bệnh. Những nghiên
cứu cụ thể chỉ ra rằng, gia tăng thất nghiệp đi liền với gia tăng tỷ
lệ tội phạm, tỷ lệ tự tử, suy giảm chất lượng sức khỏe.. Theo
một số quan điểm, rằng người lao động nhiều khi phải chọn công
việc thu nhập thấp (trong khi tìm công việc phù hợp) bởi các lợi
ích của bảo hiểm hội chỉ cung cấp cho những ai q trình
làm việc trước đó. Về phía người sử dụng lao động thì sử dụng
tình trạng thất nghiệp để gây sức ép với những người làm công
cho mình (như không cải thiện môi trường làm việc, áp đặt năng
suất cao, trả lương thấp, hạn chế hội thăng tiến, v.v..). Những
thiệt thòi khi mất việc dẫn đến trầm uất, suy yếu ảnh hưởng của
công đoàn, công nhân lao động vất vả hơn, chấp nhận thù lao ít
ỏi hơn sau cùng chủ nghĩa bảo hộ việc làm. Chủ nghĩa này
đặt ra những rào cản với người muốn gia nhập công việc, hạn chế
di dân, hạn chế cạnh tranh quốc tế. Cuối cùng, tình trạng thất
nghiệp sẽ khiến cán cân đàm phán điều kiện lao động nghiêng về
giới chủ, tăng chi phí khi rời công việc và giảm các lợi ích của việc
tìm cơ hội thu nhập khác.
Cái giá khác của thất nghiệp còn khi thiếu các nguồn tài
chính phúc lợi hội, nhân buộc phải làm những công việc
không phù hợp với trình độ, năng lực. Như vậy thất nghiệp gây ra
tình trạng làm việc dưới khả năng. Với ý nghĩa này, thì trợ cấp
thất nghiệp là cần thiết.
Nếu xét trên tổng thể nền kinh tế quốc dân, tỷ lệ thất
nghiệp cao đồng nghĩa với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) thấp
các nguồn lực con người không được sử dụng, bỏ phí hội sản
xuất thêm sản phẩm dịch vụ. Thất nghiệp còn nghĩa sản
xuất ít hơn. Giảm tính hiệu quả của sản xuất theo quy mô. Thất
nghiệp dẫn đến nhu cầu hội giảm. Hàng hóa dịch vụ không
người tiêu dùng, hội kinh doanh ít ỏi, chất lượng sản phẩm
giá cả tụt giảm. Hơn nữa, tình trạng thất nghiệp cao đưa đến
nhu cầu tiêu dùng ít đi so với khi nhiều việc làm, do đó mà hội
đầu cũng ít hơn. Tình trạng thất nghiệp gia tăng tương quan
với áp lực giảm lạm phát. Điều này được minh họa bằng đường
cong Phillips trong kinh tế học.
Một tỷ lệ thất nghiệp vừa phải sgiúp cả người lao động
chủ sử dụng lao động. Người lao động thể tìm những hội
việc khác phù hợp với khả năng, mong muốn điều kiện trú.
Về phía giới chủ, tình trạng thất nghiệp giúp họ tìm được người
lao động phù hợp, tăng sự trung thành của người lao động. Do
đó, ở một chừng mực nào đó, thất nghiệp đưa đến tăng năng suất
lao động và tăng lợi nhuận.
Các học thuyết kinh tế học giải thích thất nghiệp theo các
cách khác nhau. Kinh tế học Keynes nhấn mạnh rằng nhu cầu
yếu s dẫn đến cắt giảm sản xuất sa thải công nhân (thất
nghiệp chu kỳ). Một số khác chỉ rằng các vấn đề về cấu ảnh
hưởng thị trường lao động (thất nghiệp cấu). Kinh tế học cổ
điển tân cổ điển xu hướng giải áp lực thị trường đến từ
bên ngoài, như mức lương tối thiểu, thuế, các quy định hạn chế
thuê mướn người lao động (thất nghiệp thông thường). ý kiến
lại cho rằng thất nghiệp chủ yếu sự lựa chọn tự nguyện. Chủ
nghĩa Mác giải thích theo hướng thất nghiệp thực tế giúp duy
trì lợi nhuận doanh nghiệp chủ nghĩa bản. Các quan điểm
khác nhau thể đúng theo những cách khác nhau, góp phần
đưa ra cái nhìn toàn diện về tình trạng thất nghiệp.
Riêng Việt nam, thất nghiệp cũng làm phát sinh nhiều tệ
nạn hội do “nhàn vi bất thiện”, trở thành vấn đề nhức nhối.
trong hoàn cảnh nền kinh tế nước ta bị suy thoái do ảnh
hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới thì thất nghiệp lại
càng cần được quan tâm hơn nữa.
I. Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam 2008 – 2009
Nơi cảm nhận được sức phá hoại đầu tiên của cuộc khủng
hoảng này trước hết Mỹ nền kinh tế hàng đầu thế giới. Với
tính liên thông cao của hệ thống ngân hàng, i chính, cuộc
khủng hoảng này ngay lập tức ảnh hưởng nặng nề tới các nền
kinh tế hùng mạnh châu Âu, châu Á như: Đức, Cơn bão khủng
hoảng tài chính bắt nguồn từ Mỹ đã tàn pnặng nề nền kinh tế
thế giới. Anh, Pháp, Nhật, Singapore ... Toàn bộ kinh tế thế giới bị
đẩy vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng, hầu hết các nước đều
mức tăng trưởng âm.Với một đ mở rất cao nên nh hưởng
của khủng hoảng suy thoái kinh tế tới nền kinh tế Việt Nam
không thể tránh khỏi.Biến cố kinh tế thế giới tác động nét tới
độ ổn định tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam.
Năm 2008 đã đi qua với lãi suất cao vấn đề thanh khoản của
hệ thống tín dụng, sụt giảm của TTCK đang tiếp diễn,những cơn
sốt giá lương thực và năng lượng....
Từ những biến cố 2008…
Kinh tế Việt Nam kết thúc năm 2007 với thu hút vốn FDI
đạt kỷ lục 17,8 tỷ USD kinh tế tăng trưởng 8,4%. Tâm
chung lạc quan phấn khởi. Bởi vậy, mức nhập siêu tăng gấp
gần 2,5 lần so với năm 2006 và chỉ số lạm phát lần đầu trở lại với
2 con số sau hơn một thập kỷ kể từ 1995 không thực sự khiến
nhiều nhà kinh tế giới kinh doanh lo âu. Trước những dấu hiệu
gia tăng lạm phát xuất hiện cuối năm 2007, ngay từ đầu năm
2008, Ngân hàng Nhà nước đã theo đuổi chính sách tiền tệ thắt
chắt. Những động thái đầu tiên được thực thi trong quí I/2008 gây
cú sốc với nền kinh tế.
Bối cảnh kinh tế thế giới nhiều biến động tạo môi trường
thuận lợi cho các hoạt động đầu quốc tế. Lần lượt dầu thô,
lương thực, vàng trở thành đối tượng tập trung đầu cao.
Diễn biến phức tạp của giá dầu mỏ. Mâu thuẫn chính trị một số
khu vực nhạy cảm dầu mỏ trên thế giới và hoạt động tích cực của
các nhà đầu đã đẩy giá dầu thô tăng mạnh trong suốt 6 tháng
đầu năm 2008, lên mức đỉnh cao, lần đầu tiên trong lịch s kinh
tế thế giới, dầu thô được giao dịch với g 147 USD/thùng vào
ngày 11/7/2008. Giá nhiên liệu tăng cao đặt các nền kinh tế toàn
cầu trong tình trạng báo động đỏ khủng hoảng năng lượng. Tại
Việt Nam, xăng A92- nhiêu liệu tiêu dùng phổ biến nhất, lần tăng
giá đầu tiên trong năm 2008 vào tháng 2, từ 13.000 đồng lên
14.500 đồng/lít. Xăng dầu vật thiết yếu của sản xuất
hàng hóa trong đời sống. Chính phủ Việt Nam từ u vẫn duy trì
sự điều tiết chặt chẽ thông qua thuế, truyền thông, qui định
giá. Đến giữa tháng 7/2008, trước áp lực giá tăng kỷ lục của thị
trường thế giới, giá bán lẻ xăng A92 tại Việt Nam có sự điều chỉnh
lớn, tăng tới trên 30%, lên mức 19.000 đồng/lít.
Nạn đầu cũng khiến giá lương thực ng nhanh từ tháng
4 đến tháng 6/2008. Trong ba tháng, giá gạo xuất khẩu của Việt
Nam lần lượt tăng 23,6%; 40,4% 26,7%. So với tháng 1, giá
gạo xuất khẩu của tháng 4/2008 đã tăng hơn hai lần. Giá gạo
xuất khẩu của tháng 6/2008 tăng cao nhất, 1.005 USD/tấn.
Trước tình hình giá lương thực tăng cao, Việt Nam đã lựa
chọn giải pháp tạm ngừng xuất khẩu để quan sát. Trong khi đó,
các quốc gia nhập khẩu nỗ lực tích lũy lương thực để duy trì ổn
định giá cả đảm bảo an ninh lương thực. Thực tế này dẫn tới
hai hiệu ứng đồng thời: giá lương thực tiếp tục bị đẩy lên cao;
hành động “bơm" thêm tiền để mua lượng thực của các Chính
phủ khiến tình hình lạm phát nhiều quốc gia càng thêm trầm
trọng.
Lạm phát và tăng trưởng
Căn bệnh lạm phát hoành hành nhiều quốc gia, điển hình
Zimbabwe với con số lạm phát 219.8% vào tháng 10./2008
Lạm phát tại Việt Nam tăng mạnh trong nửa đầu năm 2008. Cuối
tháng 6/2008, chỉ số giá so với kỳ gốc 2005 144,30%. Trong
quí III/2008, tốc độ tăng CPI giảm dần. Tính cả quí, CPI chỉ tăng
4,18 điểm %. Từ tháng 10/2008, xuất hiện dấu hiệu giảm phát khi
CPI giảm xuống 148, 20 so với mức 148,48 của tháng trước. Với
Việt Nam, những tháng biến động năm 2008 một thời kỳ phân
hóa mạnh giữa các doanh nghiệp dựa trên tiêu chí bản nhất:
năng lực cạnh tranh.
Năm 2008, lần đầu tiên GDP bình quân đầu người của Việt
Nam vượt qua mốc 1.000 USD. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế cho
năm 2009 được Quốc hội đặt ra là 6,5%.
… Đến thách thức 2009
Nếu tăng trưởng kinh tế diễn ra theo đúng kịch bản 6,5% thì
trong năm 2009, Việt Nam vẫn tiếp tục nền kinh tế thu hút
nhiều quan tâm của cộng đồng kinh doanh tài chính quốc tế.
Tuy vậy, khó khăn về nguốn vốn và tín dụng quốc tế chưa qua đi.
Thu hút vốn FDI trong năm sẽ gặp nhiều khó khăn. WB dự báo
dòng vốn nhân chảy sang các nước đang phát triển sẽ giảm
mạnh từ 1.000 tỷ USD (2007) xuống còn 530 tỷ USD trong năm
2009.Tỷ lệ thất nghiệp tăng cao sẽ trở thành vấn nạn của năm
2009, kéo theo hiệu ứng hội tiêu cực. Ước tính đến hết năm
2008, số người mất việc tại Hoa Kỳ lên tới nửa triệu người, tại các
quốc gia đang phát triển, áp lực việc làm tiếp tục gia tăng khi
tăng trưởng kinh tế không theo kịp đà phát triển của lực lượng lao
động. Tạo đủ công ăn việc làm là một thách thức của kinh tế Việt
Nam trong năm 2009. Thu hẹp qui mô giãn sản xuất, đồng
nghĩa với cắt giảm nhân công hoặc sử dụng không hết thời gian
làm việc, những giải pháp phổ biến tại nhiều đơn vị sản xuất
thời gian qua. Ngay trong khu vực vốn tạo nên cơn sốt nhân lực
trong năm 2006-2007 tài chính, ngân hàng, chứng khoán
cũng hình thành xu thế cắt giảm mạnh.
thông tin tài liệu
Cái giá khác của thất nghiệp còn là khi thiếu các nguồn tài chính và phúc lợi xã hội, cá nhân buộc phải làm những công việc không phù hợp với trình độ, năng lực. Như vậy thất nghiệp gây ra tình trạng làm việc dưới khả năng. Với ý nghĩa này, thì trợ cấp thất nghiệp là cần thiết.
Mở rộng để xem thêm
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×