
Chương 1: Giới thiệu về hệ thống thông tin di động thế hệ ba
3
Không tương thích giữa các hệ thống khác nhau, đặc biệt ở châu Âu, làm
cho thuê bao không thể sử dụng được máy di động của mình ở các nước khác.
Chất lượng thấp và vùng phủ sóng hẹp.
Giải pháp duy nhất để loại bỏ các hạn chế trên là phải chuyển sang sử dụng kỹ
thuật thông tin số cho thông tin di động cùng với kỹ thuật đa truy cập mới ưu điểm
hơn về cả dung lượng và các dịch vụ được cung cấp. Vì vậy đã xuất hiện hệ thống
thông tin di động thế hệ 2.
1.1.2 Hệ thống thông tin di động thế hệ 2:
Hệ thống thông tin di động số sử dụng kỹ thuật đa truy cập phân chia theo thời
gian (TDMA) đầu tiên trên thế giới được ra đời ở châu Âu và có tên gọi là GSM.
Với sự phát triển nhanh chóng của thuê bao, hệ thống thông tin di động thế hệ 2 lúc
đó đã đáp ứng kịp thời số lượng lớn các thuê bao di động dựa trên công nghệ số. Hệ
thống 2G hấp dẫn hơn hệ thống 1G bởi vì ngoài dịch vụ thoại truyền thống, hệ
thống này còn có khả năng cung cấp một số dịch vụ truyền dữ liệu và các dịch vụ
bổ sung khác. Ở Việt Nam, hệ thống thông tin di động số GSM được đưa vào từ
năm 1993, hiện nay đang được Công ty VMS và GPC khai thác rất hiệu quả với hai
mạng thông tin di động số VinaPhone và MobiFone theo tiêu chuẩn GSM.
Tất cả hệ thống thông tin di động thế hệ 2 đều sử dụng kỹ thuật điều chế số. Và
chúng sử dụng 2 phương pháp đa truy cập:
- Đa truy cập phân chia theo thời gian (Time Division Multiple Access -
TDMA): phục vụ các cuộc gọi theo các khe thời gian khác nhau.
- Đa truy cập phân chia theo mã (Code Division Multiple Access - CDMA):
phục vụ các cuộc gọi theo các chuỗi mã khác nhau.
1.1.2.1 Đa truy cập phân chia theo thời gian TDMA:
Trong hệ thống TDMA phổ tần số quy định cho liên lạc di động được chia
thành các dải tần liên lạc, mỗi dải tần liên lạc này được dùng chung cho N kênh liên
lạc, mỗi kênh liên lạc là một khe thời gian (Time slot) trong chu kỳ một khung. Tin
tức được tổ chức dưới dạng gói, mỗi gói có bit chỉ thị đầu gói, chỉ thị cuối gói, các
bit đồng bộ và các bit dữ liệu. Không như hệ thống FDMA, hệ thống TDMA truyền
dẫn dữ liệu không liên tục và chỉ sử dụng cho dữ liệu số và điều chế số.
Giả sử khe thời gian a gán cho MSa ở biên của cell còn khe thời gian b gán
cho MSb đang ở sát trạm gốc, lúc này thời gian trễ của MSb có thể coi như bằng 0.
Như vậy đuôi tín hiệu đường lên của MSa sẽ trùng với phần đầu tín hiệu đường lên
của MSb. Để tránh xung đột như thế, các MS phải kết thúc phát sớm hơn, khoảng
thời gian rút ngắn này gọi là khoảng thời gian bảo vệ g, ta sẽ có gMin = 2R/C.
Hình 1.1 chỉ ra cấu trúc khung điển hình của một khung TDMA. Mỗi khung
bao gồm một số cụm lưu lượng, thời gian bảo vệ được chèn ở đầu mỗi cụm để
chống chồng lặp. Cấu trúc khung là không cố định, nó có thể thay đổi để phù hợp