DANH MỤC TÀI LIỆU
Học tập và làm theo tấm gương tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong GĐ đất nước đang phát triển
BÀI THU HOẠCH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO
ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
I. SỰ CẦN THIẾT HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯỞNG, TẤM GƯƠNG ĐẠO
ĐỨC HỒ CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1. Đạo đức và vai trò của đạo đức trong đời sống xã hội
Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, một hình thái của ý thức hội, bao gồm những
nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận.
Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người, phù hợp với lợi ích của
toàn xã hội.
Đối với mỗi cá nhân, ý thức hành vi đạo đức mang tính bổn phận, diễn ra một cách tự
giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu tinh thần bên trong. Đạo đức của mỗi nhân chịu sự
tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người khác trong xã hội, cũng như sự
“tự kiểm tra” bởi chính mình.
Đạo đức có chức năng giáo dục, chức năng điều chỉnh và chức năng phản ánh.
Với chức năng giáo dục, chuẩn mực đạo đức được tập thể cộng đồng chấp nhận tác
động vào ý thức hành vi đạo đức của mỗi nhân, để mỗi nhân tự giáo dục rèn
luyện, hoàn thiện nhân cách của mình theo chuẩn mực chung của hội. Mặt khác, khi
nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của người khác, người nhận xét cũng tự điều chỉnh
mình và qua đó làm cho chuẩn mực đạo đức chung trong xã hội ngày càng hoàn chỉnh.
Với chức năng điểu chỉnh, chuẩn mực đạo đức điều chỉnh hành vi của mỗi nhân
mối quan hệ giữa người với người trong hội. Trong hội, quan niệm hành vi đạo
đức của người này tác động đến quan niệm hành vi đạo đức của người khác
ngược lại. Những chuẩn mực đạo đức được cộng đồng toàn hội thừa nhận công
cụ quan trọng để điều khiển hoạt động chung của cả cộng đồng đồng thời với pháp luật
và những quy định khác.
Với chức năng phản ánh, đạo đức phản ánh thực trạng xã hội, do tồn tại xã hội quyết định
ý thức xã hội. Những mâu thuẫn đang tồn tại tronghội được thể hiện trong đạo đức
hội. Một xã hội bị tha hoá về đạo đức thể hiện những mâu thuẫn đang tồn tại trong xã hội
chưa được giải quyết.
2. Về sự suy thoái đạo đức, lối sống trong xã hội hiện nay
Qua 20 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn ý nghĩa lịch
sử. Việc thực hiện dân chủ trong Đảng và trong hội, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân nhiều tiến bộ... Đa số cán bộ, đảng viên phát huy được vai trò tiên phong, gương
mẫu, năng động, sáng tạo trong công tác, rèn luyện phẩm chất, năng lực, đóng vai trò
nòng cốt trong công cuộc đổi mới.
Tuy nhiên, trong Đảng và trong xã hội ta hiện nay đã xuất hiện tình trạng suy thoái về đạo
đức, lối sống. Nghị quyết Đại hội X đã nhận định: “Thoái hoá, biến chất về chính trị,
tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn
chặn, đẩy lùi..., làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó nguy lớn liên
quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ''.
Sự suy thoái về đạo đức, lối sống biểu hiện ở các dạng chủ yếu sau đây:
Một là, chủ nghĩa nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, buông thả, hưởng thụ, thiếu tưởng
thiếu ý chí phấn đấu xuất hiện trong tất cả các tầng lớp xã hội.
Hai là, tệ tham nhũng, hối lộ, bòn rút của công, lãng phí diễn ra ở nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực, đang “trở thành quốc nạn”, gây bức xúc trong nhân dân.
Ba là, hành động cơ hội, ''chạy chọt'' vì lợi ích cá nhân khá phổ biến.
Bốn là, lời nói không đi đôi với việc làm, nói làm trái với nghị quyết của Đảng; nói
nhiều, làm ít; phát ngôn tuỳ tiện, vô nguyên tắc.
Năm là, tệ quan liêu, xa dân, lãnh đạm, cảm trước những khó khăn, bức xúc yêu
cầu, đòi hỏi chính đáng của nhân dân.
Sáu là, tình trạng suy thoái về đạo đức trong quan hệ gia đình quan hệ giữa nhân
với xã hội, như: gia trưởng, vũ phu, bất hiếu…
Bảy là, đạo đức nghề nghiệp sa sút, ngay cả trong những lĩnh vực được hội tôn vinh.
Hiện tượng mê tín, dị đoan có chiều hướng lan rộng, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ
tục và trật tự, an toàn xã hội.
Nguyên nhân của tình trạng trên có cả khách quan và chủ quan.
Về khách quan, trước hết do tác động tiêu cực của chế kinh tế thị trường, đặc biệt
khả năng kích thích lối sống thực dụng của chế này. Sự tác động của đạo đức lối sống
sản, hưởng thụ phương Tây vào nước ta trong điều kiện toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế
quốc tế và bùng nổ mạng thông tin toàn cầu. Các thế lực thù địch, phản động đã chủ động
khuyến khích lối sống ích kỷ, hưởng thụ, thực dụng trong cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh
đạo và gia đình họ, coi đó là một trong những biện pháp thực hiện “diễn biến hoà bình”.
Về nguyên nhân chủ quan, do chúng ta chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc vai trò nền tảng
của đạo đức trong ổn định, phát triển xã hội và tác động của cơ chế kinh tế thị trường đến
đạo đức hội. Trên thực tế, chúng ta chưa coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống; thiếu sự
tổ chức, phối hợp các ngành, các cấp. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, đảng viên gia
đình chưa nêu gương về đạo đức, lối sống.
Tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống nêu trên đã tác động lớn đến sự nghiệp xây
dựng bảo vệ Tổ quốc hiện nay. đang làm thay đổi, lệch lạc những chuẩn mực,
thang bậc giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc và cách mạng, có tác hại đến sự
trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Sự suy thoái về đạo đức của một bộ
phận cán bộ, đảng viênm cho nhân dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng xấu đến uy tín
vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng, đến việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thực trạng đó tiềm ẩn nhiều nguy cơ, cùng
với các nguy khác dẫn đến mất ổn định chính trị hội, liên quan đến “sự sống còn
của Đảng, của chế độ”.
Để nâng cao năng lực sức chiến đấu của Đảng, ngăn chặn đẩy lùi suy thoái về
tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng trong hội, Hội nghị Trung ương 3
khoá X của Đảng đã ban hành Nghị quyết “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong cuộc
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí”. Ngày 7-11-2006, Bộ Chính trị Ban Chấp hành
Trung ương Đảng ra Chỉ thị Số 05-CT/TW về tổ chức Cuộc vận động “Học tập làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng toàn hội. Thực hiện tốt
Cuộc vận động này sẽ góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh ngăn chặn đẩy lùi suy
thoái về đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội.
II. HỌC TẬP LÀM THEO TƯỞNG TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ
MINH
1. tưởng đạo đức Hồ Chí Minh sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của dân tộc
ta và tinh hoa văn hoá của nhân loại; là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, ông cha ta luôn coi trọng đạo đức, hình
thành nên các chuẩn mực giá trị đạo đức tốt đẹp trong quan hệ gia đình, cộng đồng và
hội, phù hợp với yêu cầu tồn tại, phát triển của dân tộc. Đó truyền thống yêu quê
hương đất nước; gắn với thiên nhiên, với cộng đồng; đoàn kết, thuỷ chung nhân ái,
quý trọng nghĩa tình; yêu lao dộng; dũng cảm, kiên cường, hiếu học, sáng tạo...
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam,
được Người kế thừa phát triển, kết hợp với những tinh hoa văn hoá, đạo đức của nhân
loại, cả phương Đông phương Tây, Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt
động cách mạng đầy gian lao, thử thách cùng phong phú của mình. tưởng đạo
đức đó kết hợp với đạo đức tiên tiến nhất của thời đại đạo đức cộng sản trong Hồ Chí
Minh, từ đó Người đã xây dựng nên những giá trị đạo đức mới, đó là đạo đức cách mạng.
Trong quá trình đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ quốc, xây dựng
và bảo vệ đất nước, đạo đức mới - đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng
và động lực tinh thần, là nguồn sức mạnh to lớn để Đảng và nhân dân ta vượt qua mọi thử
thách, hy sinh, giành độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc, xây dựng đất nước theo mục
tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao trong
việc phát huy sức mạnh toàn dân tộc, giải phóng mọi tiềm năng cho sự phát triển. Phát
huy mạnh mẽ những chuẩn mực đạo đức mới, sự năng động, sáng tạo, ý chí độc lập, tự
chủ, tự lực, tự cường, quyết tâm không chịu mãi đói nghèo, đưa đất nước tiến lên cùng
nhân loại thời đại, động lực tinh thần to lớn để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi
mới.
Học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh một trong những biện pháp để
phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tiêu cực về đạo đức, lối sống. Học tập
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi cán bộ,
đảng viên, mỗi người Việt Nam chúng ta. Để xứng đáng cán bộ, đảng viên của Đảng
Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức rèn luyện, việc học
tập làm theo tấm gương đạo đức của Người phải trở thành nhiệm vụ hằng ngày của
mỗi đảng viên và những người đang phấn đấu vào Đảng.
2. Những nội dung chủ yếu của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
a) Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí của đạo đức trong đời sống hội của mỗi
người
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định đạo đức gốc của người cách mạng, muốn làm cách
mạng phải lấy đạo đức làm gốc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo hội thành
hội mới một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng cũng nhiệm vụ rất nặng nề, một
cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức mạnh mới gánh được nặng đi
được xa. Người cách mạng phải đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành
được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang''.
Hồ Chí Minh coi đạo đức nguồn nuôi dưỡngphát triển con người, như gốc của cây,
như ngọn nguồn của sông, suối, Người viết: “Cũng như sông thì nguồn mới nước,
không nguồn thì sông cạn. Cây phải gốc, không gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải đạo đức, không đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân”.
Hồ Chí Minh quan niệm, đạo đức cách mạng chỗ dựa giúp cho con người vững vàng
trong mọi thử thách, Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ,
thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước... khi gặp thuận lợi thành công cũng vẫn
giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, lo
hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần,
không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá”.
Đối với Đảng, đội tiên phong của giai cấp công nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu phải
xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng phải “là đạo đức, văn minh”. Trong bản Di
chúc bất hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải
thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng người lãnh đạo, người đày tớ thật
trung thành của nhân dân”.
b) Quan điểm Hồ Chí Minh về những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam
Về những phẩm chất đạo đức của người Việt Nam, quan điểm đạo đức Hồ Chí Minh đã
bao quát những mối quan hệ cơ bản của con người trong xã hội, bao gồm:
Một là, với đất nước, dân tộc phải “Trung với nước, hiếu với dân”.
Trung, hiếu phẩm chất đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam phương Đông,
được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Trong tư tưởng Hồ
Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân điều chủ chốt của đạo đức cách mạng. Trung
với nước là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, đấu tranh giành độc
lập dân tộc làm cho đất nước “sánh vai với cường quốc năm châu”. Nước của dân,
dân chủ đất nước, cho nên “trung với nước” trung với dân, trung thành với lợi ích
của nhân dân, “bao nhiêu quyền hạn đều của dân”; “bao nhiêu lợi ích đều vì dân”.
Hiếu với dân Đảng, Chính phủ, cán bộ nhà nước phải “đầy tớ trung thành của dân”;
phải “tận trung với nước, tận hiếu với dân”.
Theo tưởng Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân phải gắn với dân, gần dân,
dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Phải nắm vững dân tình, hiểu dân tâm, quan tâm cải
thiện dân sinh, nâng cao dân trí, làm cho dân hiểu trách nhiệm quyền lợi của người
làm chủ đất nước.
Hai là, với mọi người phải ''Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình”.
Yêu thương con người trong tưởng đạo đức Hồ Chí Minh xuất phát từ truyền thống
nhân nghĩa của dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân
đạo cộng sản. Yêu thương con người thể hiện mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân trong
quan hệ xã hội, là phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất.
Yêu thương con người là phải quan tâm đến những người lao động bình thường, chiếm số
đông trong xã hội. Yêu thương con người phải làm mọi việc đểcon người, mục tiêu
“ai cũng cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”; dám hy sinh, dám dấn thân để đấu
tranh giải phóng con người.
Yêu thương con người phải tin vào con người. Với mình thì chặt chẽ, nghiêm khắc; với
người thì độ lượng, rộng rãi, nâng con người lên, kể cả với người lầm đường, lạc lối, mắc
sai lầm, khuyết điểm.
Yêu thương con người giúp cho mỗi người ngày càng tiến bộ, sống cao đẹp hơn. Yêu
thương con người phải thực hiện tự phê bình, phê bình chân thành, giúp nhau sửa chữa
khuyết điểm.
Ba là, với mình phải thực sự “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công trong tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh mối
quan hệ “với tự mình”.
Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính bốn đức tính cần của con người,
mang một lẽ tự nhiên, như trời bốn mùa, đất bốn phương Người giải thích cặn
kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
- Cần lao động cần cù, siêng năng; lao động kế hoạch, sáng tạo, năng suất cao;
lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không lại, không dựa dẫm.
Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi
chúng ta”.
- Kiệm tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của dân, của nước, của
bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa
bãi, không phô trương, hình thức...”.
- Liêm “luôn tôn trọng giữ gìn của công của dân”, “không xâm phạm một đồng xu,
hạt thóc của N nước, của nhân dân”; “không tham địa vị, không tham tiền tài, không
thông tin tài liệu
Đạo đức, hiểu theo nghĩa chung nhất, là một hình thái của ý thức xã hội, bao gồm những nguyên tắc, chuẩn mực và thang bậc giá trị được xã hội thừa nhận. Đạo đức có tác dụng chi phối, điều chỉnh hành vi của mỗi người, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Đối với mỗi cá nhân, ý thức và hành vi đạo đức mang tính bổn phận, diễn ra một cách tự giác, chủ yếu xuất phát từ nhu cầu tinh thần bên trong. Đạo đức của mỗi cá nhân chịu sự tác động của dư luận xã hội, sự kiểm tra của những người khác trong xã hội, cũng như sự “tự kiểm tra” bởi chính mình. Đạo đức có chức năng giáo dục, chức năng điều chỉnh và chức năng phản ánh. Với chức năng giáo dục, chuẩn mực đạo đức được tập thể và cộng đồng chấp nhận tác động vào ý thức và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân, để mỗi cá nhân tự giáo dục rèn luyện, hoàn thiện nhân cách của mình theo chuẩn mực chung của xã hội. Mặt khác, khi nhận xét, đánh giá hành vi đạo đức của người khác, người nhận xét cũng tự điều chỉnh mình và qua đó làm cho chuẩn mực đạo đức chung trong xã hội ngày càng hoàn chỉnh.
Mở rộng để xem thêm
tài liệu giúp tôi
Nếu bạn không tìm thấy tài liệu mình cần có thể gửi yêu cầu ở đây để chúng tôi tìm giúp bạn!
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×