5 6
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Để phát triển kinh tế, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều lựa chọn mô
hình kinh tế thị trường (KTTT) nhằm sử dụng sức mạnh của quy luật cạnh
tranh làm động lực phát triển. Cơ sở để quy luật cạnh tranh được vận hành là
tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng. Chỉ trong điều kiện cạnh tranh
bình đẳng doanh nghiệp mới có cơ hội kinh doanh bằng chính thực lực của
mình. Trong môi trường kinh doanh bình đẳng, doanh nghiệp có năng lực
được thừa nhận, đào thải những doanh nghiệp yếu kém, lành mạnh hóa nền
kinh tế, thúc đẩy phát triển. Vì thế, đảm bảo môi trường cạnh tranh bình
đẳng vừa là nguyên tắc, vừa là giá trị phổ biến của KTTT. Vấn đề vướng
mắc hiện nay cả về lý luận và thực tiễn trong phát triển KTTT định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam là, làm thế nào để kinh tế nhà nước nắm vai trò
chủ đạo nhưng vẫn đảm bảo được sự bình đẳng giữa doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) với các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác. Đồng thời,
tính không hiệu quả của phần lớn DNNN cũng chưa giải thích được tác dụng
thực tế của chính sách ưu tiên đối với DNNN. Bên cạnh đó, với việc tham
gia ngày càng sâu, rộng vào thị trường quốc tế, Việt Nam cần tuân thủ quy
luật thị trường và thực hiện những cam kết đã ký.
Về chủ trương, vấn đề bảo đảm quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
(BĐGCDN) thuộc các thành phần kinh tế đã được Đảng và nhà nước quan
tâm từ ngay sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), được triển khai trong Hiến
pháp 1992 Luật Cạnh tranh 2004, Luật Doanh nghiệp 2005, Luật Đầu tư
2005 và trong các đạo luật khác. Tuy nhiên, đi ngược với kỳ vọng của nhà
nước, thực tế bất BĐGCDN không giảm mà đang có xu hướng gia tăng. Bất
BĐGCDN diễn ra mọi lúc, mọi nơi, trong mọi quan hệ, ngay từ khi gia nhập
thị trường, trong quá trình kinh doanh và trong giải thể, phá sản doanh
nghiệp. Việc thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi nhiều
thủ tục. Doanh nghiệp tư nhân tiếp cận dịch vụ công và các nguồn lực khó
khăn hơn DNNN. Một số tập đoàn kinh tế nhà nước được ưu tiên, bảo lãnh,
khoanh nợ, giãn nợ. Có những DNNN thua lỗ được sáp nhập vào tổng công
ty hoặc giao trách nhiệm cứu vớt cho các doanh nghiệp khác mà không bị
phá sản. Đồng thời, vẫn tồn tại nhiều lĩnh vực DNNN độc quyền. Điều đó
tạo sự cản trở thu hút đầu tư và làm suy giảm tăng trưởng kinh tế.
Trước những đòi hỏi từ nội tại nền kinh tế và yêu cầu của những cam
kết quốc tế, việc nghiên cứu các quy định pháp luật, đánh giá quá trình thực
thi nhằm xác định nguyên nhân và đưa ra giải pháp phù hợp, bảo đảm quyền
BĐGCDN là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Vì lẽ đó, tác giả
luận án đã chọn vấn đề "Pháp luật về quyền bình đẳng giữa các doanh
nghiệp ở Việt Nam" làm đề tài nghiên cứu.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu hệ thống pháp luật và việc
thực thi pháp luật về quyền BĐGCDN ở Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Luận án nghiên cứu, đánh giá các quy định pháp luật về quyền
BĐGCDN trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
+ Luận án nghiên cứu đối với các loại hình doanh nghiệp được quy định
trong Luật Doanh nghiệp 2005.
+ Luận án nghiên cứu quyền BĐGCDN gắn với quá trình thành lập
doanh nghiệp, đi vào kinh doanh và rút khỏi thị trường, bao gồm: (i) bình
đẳng trong đăng ký doanh nghiệp; (ii) bình đẳng trong kinh doanh; (iii) bình
đẳng trong giải thể, phá sản doanh nghiệp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là cung cấp các luận cứ khoa học cho
việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền BĐGCDN ở Việt Nam.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là:
- Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về quyền BĐGCDN, ý nghĩa của
việc bảo đảm quyền BĐGCDN. Đồng thời, đánh giá vai trò của pháp luật
trong việc bảo đảm quyền BĐGCDN và các yếu tố chi phối quyền BĐGCDN.