DANH MỤC TÀI LIỆU
Luận văn: Khái niệm về thương mại điện tử và lợi ích của thương mại điện tử
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
-1-
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
CHƢƠNG I
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
I. KHÁI NIỆM VỀ THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ.
Sự phát triển hoàn thiện của kỹ thuật số đã đưa tới cuộc “cách mạng số
hoá”, thúc đẩy sự ra đời của “kinh tế số hoá”, “xã hội thông tin” thương
mại điện tử là một bộ phận hợp thành. Thương mại điện tử việc sử dụng các
phương pháp điện tử để làm thương mại, trong đó thương mại” (commerce)
không phải chỉ buôn bán hàng hoá dịch vụ (trade), - như được các nước
thành viên Liên hợp quốc thoả thuận- bao gồm hầu như tất cả các dạng hoạt động
kinh tế, và việc chấp nhận và áp dụng thương mại điện tử sẽ làm thay đổi toàn bộ
hình thái hoạt động của xã hội.
1. Số hoá và nền kinh tế số hoá.
Cho tới đầu thế kỷ này, đliên lạc với nhau, người ta sử dụng các hệ thống
hiệu như âm thanh, hình ảnh, chữ viết. Trong nửa đầu thế kỷ, kthuật s
(digital technique) trên sở hnhị phân ( binary system, dùng hai chữ số, 0 và
1; mỗi sđó gọi 1 bit, 8 bit gọi một byte, biểu diễn điện tử tương ứng của
hai ấy là “mạch mở” và “mạch đóng”) bắt đầu phát triển hoàn thiện dần. Hình
ảnh (kể cả chữ viết, con số, các hiệu khác), âm thanh đều được số hoá
thành các nhóm bit điện tử, để ghi lại, lưu giữ trong môi trường từ, truyền đi
đọc bằng điện tử, tất cả đều với tốc độ ánh sáng (300 nghìn km/giây).
Kỹ thuật số được áp dụng trước hết vào máy tính điện tử, tiếp đó sang các
lĩnh vực khác (cho tới điện thoại di động, thẻ tín dụng v.v.). Việc áp dụng các kỹ
thuật số thể được gọi một cuộc Cách mạng đại trong lịch sử nhân loại,
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
-2-
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
gọi cuộc cách mạng số hoá ( digital revolution), mở ra kỷ nguyên số hoá”
(Digital Age).
Cách mạng số hoá diễn ra với tốc độ rất cao. Trong bối cảnh ấy, hoạt động
kinh tế nói chung và thương mại nói riêng (kể cả khâu quản lý) cũng chuyển sang
dạng “số hoá”, “điện t hoá”; khái niệm thương mại điện tử” dần dần hình
thành, và ứng dụng “thương mại điện tử” ngày càng mở rộng.
2. Thƣơng mại điện tử là gì?
Thương mại điện tử một trong những lĩnh vực tương đối mới, ngay tên
gọi cũng nhiều: thể gọi thương mại trực tuyến” (online trade) (còn gọi
“thương mại tại tuyến”), thương mại điều khiển học” (cybertrade), “kinh
doanh điện tử” (electronic business), “thương mại không giấy tờ” (paperless
commerce hoặc paperless trade) v..v; gần đây “thương mại điện tử” (electronic
commerce) được sử dụng nhiều trở thành quy ước chung, đưa vào văn bản
pháp luật quốc tế, rằng các tên gọi khác vẫn thể được dùng được hiểu
với cùng một nội dung.
Theo định nghĩa rộng rãi nhất, giản dị nhất đã được chấp nhận phổ biến,
thì thương mại điển tử việc sử dụng các phương pháp điện tử để làm thương
mại. Nói chính xác hơn, thương mại điện tử việc trao đổi thông tin thương mại
thông qua các công nghệ điện tử, nói chung không cần in ra giấy trong bất
kỳ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch.
Trong định nghĩa trên đây, “thông tin” (information) không được hiểu theo
nghĩa hẹp “tin tức”, mà là bất cứ gì thể truyền tải bằng kỹ thuật điện tử, bao
gồm cả thư từ, các tệp văn bản (text-based file), các sở dữ liệu (database), các
bản tính (spreadsheet), các bản vẽ thiết kế bằng máy tính điện tử (computer-aid
design: CAD), các hình đồ hoạ (graphical image), quảng cáo, hỏi hàng, đơn hàng,
hoá đơn, biểu giá, hợp đồng, hình ảnh động (video image), âm thanh v.v.
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
-3-
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
Cần cý rằng, chữ “thương mại” (commerce) trong thương mại điện tử”
(electronic commerce) cần được hiểu như cách diễn đạt sau đây của Uỷ ban Liên
hiệp quốc về luật thương mại quốc tế, đã được ghi trong Đạo luật mẫu vầ thương
mại điện tử do Uỷ ban này thảo ra và đã được Liên hiệp quốc thông qua:
Thuật ngữ thương mại cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao quát c
vấn đề nảy sinh ra từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại, hay
không hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm, nhưng
không phải chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: bất cứ giao dịch thương mại nào
về cung cấp hoặc trao đổi hàng hoá hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại diện
hoặc đại lý thương mại; uỷ thác hoa hồng (factoring), cho thuê dài hạn (leasing);
xây dựng các công trình; vấn; kỹ thuật công trình (engineering); đầu tư; cấp
vốn; ngân hàng; thoả thuận khai thác; bảo hiểm; thoả thuận khai thác hoặc
nhượng; liên doanh các hình thức khác về hợp tác công nghiệp hoặc kinh
doanh; chuyên chở hàng hoá hay hành khách bằng đường biển, đường không,
đường sắt hoặc đường bộ.
Như vậy, thương mại” (commerce) trong thương mại điện tử(electronic
commerce) không chỉ buôn bán hàng hoá dịch vụ (trade) theo cách hiểu
thông thường, bao quát một phạm vi rộng hơn nhiều, do đó việc áp dụng
thương mại điện tử sẽ làm thay đổi hình thái hoạt động của gần như tất cả các
hoạt động kinh tế. Theo ước tính đến nay, thương mại điện tử tới trên 1300
lĩnh vực ứng dụng, trong đó, buôn bán hàng hoá và dịch vụ (trade) chỉ là một lĩnh
vực ứng dụng.
3. Các phƣơng tiện kỹ thuật hiện đại của thƣơng mại điện tử.
- Điện thoại:
Điện thoại là một phương tiện phổ thông, dễ sử dụng, và thường mở đầu cho
các cuộc giao dịch thương mại. Một số loại dịch vụ thể cung cấp trực tiếp của
điện thoại (như dịch vụ bưu điện, ngân hàng, hỏi đáp, tư vấn, giải trí); với sự phát
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
-4-
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
triển của điện thoại di động, liên lạc qua vệ tinh, ứng dụng của điện thoại đang và
sẽ trở nên rộng rãi hơn.
Tuy nhiên, trên quan điểm kinh doanh, công cụ điện thoại mặt hạn chế
chỉ truyền tải được mọi cuộc giao dịch cuối cùng cũng phải kết thúc bằng giấy tờ.
Ngoài ra, chi phí giao dịch điện thoại, nhất điện thoại đường dài điện thoại
ngoài nước vẫn còn cao.
- Máy điện báo (Telex) và máy Fax:
Máy fax có thể thay thế dịch vụ đưa thư và gửi công văn truyền thống, ngày
nay gần như đã thay thế hẳn máy Telex chỉ truyền được lời văn. Nhưng máy
Fax có một số mặt hạn chế như: không thể truyền tải được âm thanh, chưa truyền
tải được các hình ảnh phức tạp, ngoài ra giá máy và chi phí sử dụng còn cao.
- Truyền hình:
Số người sử dụng máy thu hình trên toàn thế giới hiện nay là rất lớn đã
khiến cho truyền hình trở thành một trong những công cụ điện tử phổ thông nhất
ngày nay.
Truyền hình đóng vai trò quan trọng trong thương mại, nhất trong quảng
cáo hàng hoá, ngày càng nhiều người mua hàng nhờ quảng cáo trên truyền
hình, một số dịch vụ đã được cung cấp qua truyền hình (như các chương trình
đặt trước.v.v.) . Song truyền hình chỉ là một công cụ viễn thông “một chiều”; qua
truyền hình khách hàng không thể tìm kiếm được các chào hàng, không thể đàm
phán với người bán về các điều khoản mua bán cụ thể. Nay máy thu hình được
nói kết với máy tính điện tử, thì công cụ của nó được mở rộng hơn.
- Thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử:
Mục tiêu cuối cùng của mọi cuộc mua bán là người mua nhận được hàng
người bán nhận được tiền trả cho số hàng đó. Thanh toán, thế, khâu quan
trọng bậc nhất của thương mại, thương mại điện tkhông thể thiếu được công
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
-5-
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
cụ thanh toán điện tử thông qua các hệ thống thanh toán điện tử chuyển tiền
điện tử mà bản chất là các phương tiện tự động chuyển tiền từ tài khoản này sang
tài khoản khác (nay xuất hiện cả hình thức tự động chuyển tiền mặt thông qua các
“túi tiền điện tử”: electronic purse). Thanh toán điện tử sử dụng rộng rãi các máy
rút tiền tự động (ATM: Automatic Teller Machine), thẻ tín dụng (credit card) các
loại, thẻ mua hàng (purchasing card), thẻ thông minh (smart card: thẻ từ có gắn vi
chip điện tử mà thực chất là một máy tính điện tử rất nhỏ) v.v.
- Mạng nội bộ và liên mạng nội bộ:
Theo nghĩa rộng, mạng nội bộ toàn bộ mạng thông tin của một nghiệp
các liên lạc đủ kiểu giữa các máy tính điện tử trong quan nghiệp đó,
cộng với liên lạc di động. Theo nghĩa hẹp, đó mạng kết nối nhiều máy tính
gần nhau (gọi là mạng cục bộ: Local Area Network - LAN); hoặc nối kết các máy
tính trong một khu vực rộng lớn hơn (gọi là mạng miền rộng: Wide Area
Network - WAN). Hai hay nhiều mạng nội bộ liên kết với nhau sẽ tạo thành liên
mạng nội bộ (cũng thể gọi “mạng ngoại bộ” - extranet) tạo ra một cộng
đồng điện tử liên xí nghiệp (inter-enterprise electronic community).
- Internet và Web:
Năm 1969, quan các dự án nghiên cứu cao cấp thuộc Bộ Quốc phòng
Mỹ bắt đầu nghiên cứu các tiêu chuẩn công nghệ - thiết bị truyền gửi dliệu
cho phép lập một mạng toàn quốc, nối ghép các mạng cục bộ miền rộng sử
dụng các chuẩn công nghệ khác nhau thành một mạng chung để trao đổi thông tin
nhanh chóng và kịp thời. Năm 1983 dự án này thành công, một mạng toàn cục ra
đời, sau đó tách thành hai mạng: MILnet chuyên dùng cho quân đội ARPAnet
dùng cho nghiên cứu giáo dục. Các mạng máy tính đều thể kết nối với
ARPAnet, vì thế được đặt tên Internet (tức liên mạng”). Năm 1994 toàn
thế giới khoảng 3 triệu người kết nối Internet; năm 1996 con số đã lên trên 67
Kho¸ luËn tèt nghiÖp
-6-
HTTP://SINHVIENNGANHANG.COM
triệu người, năm 1997 đã 110 quốc gia kết nối vào mạng Internet; năm 1998,
toàn thế giới có khoảng 100 triệu người sử dung Internet/Web.
Từ năm 1995, Internet được chính thức công nhận mạng toàn cầu,
“mạng của các mạng” (the network of the networks) một máy tính địa chỉ
Internet thoạt tiên được nối vào mạng LAN, rồi tới mạng WAN, rồi vào Internet.
Nhờ đó các mạng các máy tính địa chỉ Internet có thể giao tiếp với nhau,
truyền gửi cho nhau các thông điệp (gọi thư điện tử: electronic mail, tức e-
mail), và các dữ liệu thuộc hàng trăm ứng dụng khác nhau.
Việc kết nối các mạng như trên được thực hiện trên sở các tiêu chuẩn
truyền dẫn dữ liệu trong môi trường Internet (Internet Standards), chủ yếu là giao
thức chuẩn TCP/IP (Transmission Control Protocol/Internet Protocol) do Bộ
Quốc phòng Mỹ (DOD: Department Of Defense) khởi thảo phát triển (như đã
nói trên). Trong đó TCP chịu trách nhiệm đảm bảo việc truyền gửi chính xác
dữ liệu từ người sử dụng tới máy chủ (server) nút mạng, còn IP trách nhiệm
chuyển các gói dữ liệu (packet of data) từ nút mạng này sang nút mạng khác theo
địa chỉ Internet.
Khi nói Internet, ta nói tới một phương tiện liên kết các mạng với nhau trên
phạm vi toàn cầu trên sở giao thức chuẩn quốc tế TCP/IP. Công nghệ Internet
thực sự trở thành công cụ đắc lực khi áp dụng thêm giao thức chuẩn quốc tế
HTML (HyperText Transfer Protocol: Giao thức chuẩn truyền siêu văn bản) với
các trang siêu văn bản viết bằng ngôn ngữ HTML (HyberText Markup
Language), tạo ra nhiều dịch vụ khác nhau, tới nay nổi bật nhất dịch vụ
Word Wide Web ra đời năm 1991 (thường gọi tắt Web, viết tắt WWW
hoặc W3) công nghệ sử dụng các siêu liên kết văn bản (hyberlink, hybertext)
tạo ra các văn bản chứa nhiều tham chiếu tới các văn bản khác, cho phép
người sử dụng tự động chuyển từ một sở dữ liệu này sang một sở dữ liệu
kia, bằng cách đó mà truy cập các thông tin thuộc các chủ đề khác nhau dưới
thông tin tài liệu
Thương mại điện tử là một trong những lĩnh vực tương đối mới, ngay tên gọi cũng có nhiều: có thể gọi là “thương mại trực tuyến” (online trade) (còn gọi là “thương mại tại tuyến”), “thương mại điều khiển học” (cybertrade), “kinh doanh điện tử” (electronic business), “thương mại không có giấy tờ” (paperless commerce hoặc paperless trade) v..v; gần đây “thương mại điện tử” (electronic commerce) được sử dụng nhiều và trở thành quy ước chung, đưa vào văn bản pháp luật quốc tế, dù rằng các tên gọi khác vẫn có thể được dùng và được hiểu với cùng một nội dung
Mở rộng để xem thêm
tài liệu giúp tôi
Nếu bạn không tìm thấy tài liệu mình cần có thể gửi yêu cầu ở đây để chúng tôi tìm giúp bạn!
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×