thủy phân phèn ở bể phản ứng, sau đó nước sông qua bờ tràn dẫn vào 2 bể phản ứng.
Tại ngõ ra bể trộn sơ cấp có gắn hệ thống châm dung dịch polymer (chất trợ lắng).
Thời gian lưu nước tại bể trộn này là 70-80 giây. Hệ thống châm polymer chỉ sử dụng
tăng cường vào mùa mưa khi nước có độ đục cao.
Nước sông vào 2 bể phản ứng với thời gian lưu nước 19 phút, trên mỗi bể phản
ứng lắp đặt 32 máy khuấy phân bố đều suốt chiều dài bể, tại mỗi bể phản ứng dung
dịch phèn được thủy phân thành dung dịch keo mang điện tích dương có khả năng
hấp thụ các hạt lơ lửng trong nước mang điện tích trái dấu để tạo thành các bông cặn.
Các hạt keo được cánh khuấy tương tác trở nên năng động, tạo điều kiện tiếp xúc với
các hạt lơ lửng để thêm cặn nhiều và lớn hơn.
Rời bể phản ứng, nước đi qua 1 kênh dẫn hình thang để phân phối đều cho 7 bể
lắng ngang. Tại kênh phân phối này đặt hệ thống thổi hơi ở đáy bể giữ cho cặn không
lắng xuống.
Trong giai đoạn này, nước sẽ chảy từ từ qua bể, dưới tác dụng của trọng lượng
bản thân, các bông cặn sẽ chìm dần xuống đáy bể. Giai đoạn này giữ lại phần lớn các
hạt lơ lửng trong nước (80%), cặn lắng xuống nhiều nhất ở khoảng ¼ chiều dài của
bể. Thời gian lưu nước trong bể lắng khoảng 2 giờ, phần lớn nước trong trên mặt sẽ
tràn qua máng phẳng thu nước (bể lắng lớn có 6 máng thu và bể lắng nhỏ có 2 máng
thu). Lượng bùn lắng tích tụ nhiều sẽ ảnh hưởng đến cơ chế thủy lực trong bể, vì vậy
trung bình 3 tháng bể lắng được xả cạn để rửa bùn. Nước ra khỏi bể lắng được đưa
vào 1 kênh dẫn chung, phân phối nước cho 20 bể lọc.
Mỗi bể lọc có diện tích 132,6m2, tốc độ lọc trung bình 13 m/h và công suất là
37.500 m3/ngày đêm. Hồ lọc có khoang thu nước ở đáy, phía trên là lớp đan đỡ vật
liệu lọc, đan có lỗ gắn chụp lọc nhựa đuôi dài. Lớp vật liệu lọc được sắp xếp thành 2
lớp: lớp sỏi đỡ dày 100 mm, lớp cát dày 950 mm. Các bể lọc có nhiệm vụ giữ lại các
hạt cặn nhỏ và vi khuẩn mà hồ lắng không thể giữ lại được để làm trong nước. Theo
trọng lực nước đi qua lớp vật liệu lọc, các hạt cặn, bông cặn được giữ lại và cho lớp
6