DANH MỤC TÀI LIỆU
Nâng cao động lực cho người lao động trong nhà xuất bản xây dựng và đánh giá đúng thực trạng hoạt động của nhà xuất bản để đề xuất một số giải pháp cơ bản về nâng cao động lực cho cán bộ công nhân viên trong nhà xuất bản
LUẬN VĂN:
Gii pháp nâng cao đng lc cho cán b
công nhân viên chc trong nhà xut bn
xây dng
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2007 khi Việt Nam chính thức ra nhập WTO đã đánh dấu bước ngoặt to lớn c
về kinh tế, chính trị. Vươn ra biển lớn đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng lực cạnh
tranh mạnh. Muốn vậy, họ phải không ngừng đổi mới kthuật quan trọng phải tạo
động lực cho người lao động m việc với sự sáng tạo lớn.Vậy làm thế nào để phát huy
năng lực của người lao động một cách tối đa. Đã rất nhiều học thuyết vviệc nâng cao
động lực cho người lao động nhưng việc áp dụng vào mỗi doanh nghiệp là khác nhau.
Nhà xuất bản xây dựng trong tình hình chung đó cũng đang phải chịu sự cạnh tranh
lớn từ các nhà xuất bản khác. Là doanh nghiệp nnước thoạch toán tài chính, không
còn được sự bao cấp của nhà nước, hơn nữa việc thực hiện công ước Bern từ năm 2004 đã
đạt ra rất nhiều thách thức. Do đó, cần phải những chính sách khuyến khích người lao
động như vậy mới xây dựng được svững mạnh, tạo những bước tiến vững chắc cho
nhà xuất bản xây dựng trong công cuộc đổi mới.
Nhận thức được tầm quan trọng của công c quản nguồn nhân lực trong tình
hình trong nước thế giới, sau một thời gian thực tập trong nhà xuất bản xây dựng được
tiếp xúc với thực tế và vận dụng những kiến thức đã học trong chuyên ngành quản công
của mình tôi đã chọn đề tài: Các biện pháp nâng cao động lực cho cán bộ công nhân viên
chức trong nhà xuất bản xây dựng ” để làm báo cáo chuyên đề thực tập. Tôi xin cảm ơn TS
Bùi Đức Thọ đã hướng dẫn cũng như tận tình chỉ bảo để tôi có thể hoàn thành báo cáo một
cách tốt nhất
* Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trên sở làm rõ luận của việc nâng cao động lực cho người lao động trong nhà
xuất bản xây dựng và đánh giá đúng thực trạng hoạt động của nhà xuất bản để đề xuất một
số giải pháp cơ bản về nâng cao động lực cho cán bộ công nhân viên trong nhà xuất bản
* Phương pháp nghiên cứu:
Báo cáo sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đồng thời còn sử dụng các phương pháp như: so sánh, thống kê, logic lịch
sử và sử dụng các tài liệu có liên quan.
* Kết cấu của báo cáo gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc nâng cao động lực cho người lao động
Chương 2: Thực trạng các chính sách của nhà xuất bản xây dựng m tăng động
lực cho cán bộ công nhân viên
Chương 3 : Các giải pháp cơ bản nâng cao động lực m việc cho cán bộ công nhân
viên trong nhà xuất bản xây dựng
Chương 1. Cơ sở lý luận cho việc nâng cao động lực cho người lao động
1.1 Các quan niệm về người lao động
Ngành kinh tế học quan niệm con người là người lao động, là yếu tố sản xuất có giá
trị tương đương với tiền vốn, đất đai, nhưng rốt cuộc lại không phải tiền vốn cũng
chẳng phải đất đai. Con người tưởng, sức sống, khả năng nhận thức và cải
tạo thế giới khách quan. Tìm hiểu nắm vững con người chính tố chất bản cần
của người lãnh đạo. Từ khi ngành quản lý học ra đời, các nhà quản lý học trong những giai
đoạn lịch sử khác nhau những nhận thức khác nhau về con người. Cách nhìn nhận con
người khác nhau sẽ quyết định phương thức quản khác nhau, hình thức khích lệ khác
nhau mà người quản lý lựa chọn.
Lý luận thứ nhất cho rằng người lao động là người làm thuê
Chủ nghĩa tư bản cho con người quyền tự do cá nhân, nhưng đối với người lao động
thì tự do lại biến thành bán sức lao động của mình. Bởi người lao động người không
trong tay, bị tước đoạt tư liệu sản xuất nguồn sống, nếu không n sức lao động
thì lấy để tồn tại. Các nhà tư bản thể dùng tiền để mua sức lao động, cũng giống như
mua một mặt hàng nào đó. Sở các nhà bản mua sức lao động trong quá trình
người lao động kết hợp với liệu sản xuất sẽ tạo ra giá trị lớn n giá phải mua ban đầu
giá trị thặng dư cũng cung cấp cho nhà bản sử dụng. Trong các doanh nghiệp thời kỳ
đầu của chủ nghĩa bản, nời lao động chẳng qua chỉ một người m thuê, một công
cụ biết nói mà thôi. Để khai thác triệt để giá trị thặng dư, các nhà bản đã sử dụng những
thủ đoạn độc ác để kiểm soát người lao động, ví như tăng cường độ lao động, kéo dài thời
gian lao động, trả tiền lương ít, phạt nặng.
Trong con mắt người quản hoặc ông chủ các doanh nghiệp thời đó, những người
đi làm thuê là những nời tham ăn lười m, thích ngồi chơi xơi nước. Hình thức quản
đối với những người m thuê này chỉ bằng ch áp chế, ra lệnh, trừng phạt thì mới th
hoàn thành công việc, nếu không họ sẽ không chịu nghe lời, lười biếng, m sai m hỏng,
thậm chí còn cãi lộn.
Cách nhìn nhận của người quản đối với nhân viên như vậy được gọi luận
X ”.
Giả thiết của lý luận X là:
- Cách đối xử: cho rằng tất cả đều là người xấu.
- Xu hướng: Nói chung mọi người đều là người xấu
- người lao động không thích làm việc, một trong những nh thức nhằm đạt
mục tiêu quản phải tăng cường dùng lực, áp chế, ra lệnh trừng phạt để uy hiếp
người lao động
Những người quản lý lựa chọn lý luận X, họ cảnh giác với mọi hành động của nhân
viên cấp dưới, họ rất thận trọng với tất cả nhân viên. Nếu cấp dưới không tuân theo
những mệnh lệnh của họ thì sẽ bị trừng phạt nặng nề. Với cách đối xử với nhân viên như
vậy, chính nhà quản đã làm mai một tính tích cực, tính chủ động tính sáng tạo của
người lao động. Mối quan hệ giữa người quản người lao động cực kỳ căng thẳng,
người lao động coi công việc như phương tiện kiếm sống mà thôi, còn người quản thì
lúc nào cũng chỉ tìm cách kiểm soát người lao động.
Tất nhiên cũng ý kiến cho rằng những người lao động này rất dễ quản lý. Bởi vì,
thứ nhất họ không có trình độ văn hóa; thứ hai họ không có tiền nên rất dễ thuyết phục, rất
dễ đáp ứng nhu cầu, chỉ cần đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của họ như nhu cầu ăn mặc
thể bắt họ làm việc. vậy một số i, mặc các ông chủ rất thô bạo, thậm chí
hay đánh chửi người lao động, nhưng đó thu nhập tốt nên rất nhiều người lao động
chịu nhẫn nhục, thậm chí còn phải liều mạng đến m việc, bán sức lao động, đổ máu để
kiếm tiền.
Lý luận thứ hai cho rằng người lao động là nhà kinh tế
Cùng với sự phát triển của nền sản xuất hiện đại hóa, các nhà quản lý học cho rằng,
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX giai đoạn rất thịnh hành của giới doanh nghiệp. Giới
doanh nghiệp bắt đầu tiếp nhận giả thiết liên quan đến người lao động nhà kinh tế do
các nhà quản lý học đưa ra. Trong đó quan điểm v“ nhà kinh tế ” của Taylor một điển
hình.
Taylor cho rằng mục đích của các doanh nghiệp là thu được lợi nhuận cao nhất,n
mục đích của người lao động thu nhập cao, do đó muốn phát huy tinh thần tích cực
của người lao động thì phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu của họ. dụ, để thể điều khiển
công việc của người lao động hiệu quả hơn so với bình thường thì cần phải khích l
người lao động làm việc chăm chỉ, chấp hành mệnh lệnh, chịu sự quản của người lãnh
đạo. Kết quả người lao động sẽ nhận được chế độ đãi ngộ tốt tiền lương cao; chlao
động thì cũng tăng được lợi nhuận, thuận tiện trong quản lý.
Đối với giả thiết về nhà kinh tế người quản doanh nghiệp đã trthành tiêu
chuẩn làm việc đầu tiên, hơn nữa thể tiến hành phân tích, xác nhận lựa chọn những
người lao động phù hợp với yêu cầu trong một khoảng thời gian, sau đó đào tạo thêm để đạt
được mục tiêu của công việc, cuối cùng đưa ra hình thức khen thưởng để phát huy tính
tích cực của người lao động, làm cho họ chấp hành mệnh lệnh, giúp họ nâng cao hiệu suất
công việc.
Một nmáy hiệu qukinh tế cao ở Trung Quốc chủ yếu sử dụng hình thức tính
lương theo định mức. Từ khi bắt đầu tuyển công nhân vào làm việc nhà máy, họ đã sắp
xếp mức lương hợp lý cho mỗi người và đặt ra cho mỗi người một định mức công việc, nếu
công nhân không hoàn thành định mức thì tiền lương sẽ rất thấp, nếu hoàn thành thì sẽ đảm
bảo mức tiền lương bản, nếu vượt định mực sẽ tính theo phần trăm vượt định mức. Với
biện pháp này, ngay trong thời kỳ đầu đã phát huy tối đa tinh thần tích cực của công nhân,
đối với những công nhân thành thạo được thưởng khi vượt định mức, càng làm cho họ phấn
đấu làm thêm giờ thêm việc, còn đối với những công nhân còn non yếu trong nghề thì cũng
không chịu thua kém. Người quản lý chỉ việc kiểm tra chất lượng, không cần phải thúc giục,
quát tháo công nhân làm việc nữa.
Tất nhiên, khi hình thức lao động vẫn còn bị coi là cách để kiếm sống, nếu thu nhập
không cao lại phải đối mặt với thtrường sản phẩm vật chất phong phú thì những hoạt
động của con người sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố kinh tế. Do đó, các doanh nghiệp
thông tin tài liệu
Năm 2007 khi Việt Nam chính thức ra nhập WTO đã đánh dấu bước ngoặt to lớn cả về kinh tế, chính trị. Vươn ra biển lớn đòi hỏi các doanh nghiệp phải có năng lực cạnh tranh mạnh. Muốn vậy, họ phải không ngừng đổi mới kỹ thuật và quan trọng là phải tạo động lực cho người lao động làm việc với sự sáng tạo lớn.Vậy làm thế nào để phát huy lực của người lao động một cách tối đa. Đã có rất nhiều học thuyết về việc nâng cao động lực cho người lao động nhưng việc áp dụng vào mỗi doanh nghiệp là khác nhau. Nhà xuất bản xây dựng trong tình hình chung đó cũng đang phải chịu sự cạnh tranh lớn từ các nhà xuất bản khác. Là doanh nghiệp nhà nước tự hoạch toán tài chính, không còn được sự bao cấp của nhà nước, hơn nữa việc thực hiện công ước Bern từ năm 2004 đã đạt ra rất nhiều thách thức. Do đó, cần phải có những chính sách khuyến khích người lao động có như vậy mới xây dựng được sự vững mạnh, tạo những bước tiến vững chắc cho nhà xuất bản xây dựng trong công cuộc đổi mới.
Mở rộng để xem thêm
tài liệu giúp tôi
Nếu bạn không tìm thấy tài liệu mình cần có thể gửi yêu cầu ở đây để chúng tôi tìm giúp bạn!
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×