Proteintáitổ hợp và virus dịch tả heo
3
virus là Bayer’s Bayovac® CSF với Ceditest Erns ELISA ( Đức) và Intervet’s
Porcilis® Pesti với Chekit CSF Erns ELISA. ( Hà Lan).
A. Virus dịch tả heo_pestis suum
I. Vài nét về bệnh dịch tả heo
Bệnh dịch tả lợn lần đầu tiên ghi nhận ở Mỹ vào năm 1833 và đến 1855 bệnh
lây lan ra toàn nước Mỹ. Sau đó bệnh lan ra các nước châu Mỹ, lan ra châu Âu và
châu Á, châu Phi và châu Úc.
Ở nước ta bệnh DTLCĐ được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1923-1924.
Dịch phát nặng ở miền Bắc vào năm 1959. Từ 1975 đến năm 1979 dịch có phần lắng
dịu. Nhưng đến năm 1980 dịch lại phát ra ở 13 tỉnh biên giới( Vũ Đình Tiến, 1980).
Nguồn bệnh chủ yếu là do lợn bệnh, lợn mang trùng. Đặc biệt nguy hiểm là
lợn bệnh không có biểu hiện triệu chứng lâm sàng, lợn bệnh lưu niên. Những nguồn
lợn bệnh này gieo rắc mầm bệnh qua phân, nước tiểu dịch mũi, nhiễm vào thức ăn,
nước, đất, các dụng cụ chăn nuôi, các phương tiện vận chuyển v.v…
Các công trình nghiên cứu cho thấy, virus không thay đổi đặc tính qua tiếp đời liên
tiếp, nhưng tác động mạnh yếu khác nhau tùy ổ dịch (Jactot, 1939).
Giống lợn lang miền Nam Trung Bộ có tính cảm thụ cao với virus. Tiêm
1/500 ml máu bệnh cho lợn gây chết 100%. Giống lợn này cảm thụ với các giống
bệnh dịch tả lợn ở nơi khác như giống virus Angeri, virus Bắc Bộ và Trung Bộ.
Qua kết quả nghiên cứu về tính gây bệnh và tính kháng nguyên của 3 chủng
phân lập được ở Hà Nội, Hà Tây và Nghệ An tác giả Trần Minh Châu(1970) đã chỉ
ra rằng 3 chủng này được truyền đời qua lợn có đặc điểm không giống nhau. Chủng
Nghệ An gây bện cho lợn ở thể thứ cấp điển hình, chủng Hà Tây gây bệnh nhưng
bệnh tích không điển hình. Tất cả các chủng này đều giết lợn, chủng có độc lực
mạnh là chủng Nghệ An với log LD50 là 10,5. Các chủng đều có tính kháng nguyên
chung với chủng nhược độ vacxin (chủng nhược độc III54). Lợn được tiêm phòng
vacxin đều được bảo hộ 100% khi công các chủng cường độc được phân lập nói
trên.
Nguyên nhân chính làm dịch lan rộng là các loại lợn giống được chuyển đi từ nơi
có ổ dịch sang nơi mới, hoặc ở nhưng vùng có tập quán nuôi nái, do loại thải lợn
bệnh không triệt để, virus có điều kiện tồn tại, hoặc ở những nơi lợn chưa được tiêm
phòng hoặc tiêm phòng chưa triệt để.
Theo Lê Độ(1981) dịch thường xảy ra vào vụ đông xuân, qua tổng kết 10
năm(1966-1980) thì khoảng 60% ổ dịch phát ra tháng 1, 2, 3. Cao nhất là tháng
2(khoảng 30%), các tháng khác trong năm đều có dịch.
Theo Trịnh Văn Thịnh(1982). Lợn ở các lứa tuổi đều mắc bệnh, nhưng nặng
nhất là lợn con theo mẹ, lợn sau cai sữa.