Mạng Sprintnet: (năm 1996) của Công ty Điện toán và Truyền số liệu (VDC)
thuộc Tổng công ty Bưu chính Viễn thông (VNPT) tại hai địa điểm Hà Nội và
Tp.HCM qua hai cổng quốc tế 64 Kb/giây kết nối Internet Sprintlink (Mỹ).
Mạng Varenet: (năm 1994) của Viện Công nghệ thông tin thuộc Trung tâm Khoa
học tự nhiên và Công nghệ quốc gia được kết nối với mạng Internet qua cổng
mạng AARnet của Đại học Quốc gia Australia.
Mạng Toolnet: (năm 1994) của Trung tâm thông tin Khoa học công nghệ Quốc
gia thuộc Bộ Khoa học công nghệ và Môi trường kết nối với mạng Toolnet của
Amsterdam (Hà Lan).
Mạng HCM CNET: (năm 1995) của Trung tâm Khoa học và công nghệ thuộc Sở
Khoa học công nghệ và Môi trường TP HCM kết nối qua nút mạng ở Singapore.
Internet lúc đầu được xem là dịch vụ cao cấp dành cho một nhóm cá nhân, tập thể thật
sự có nhu cầu. Vì là dịch vụ mới nên cước phí cao, thủ tục đăng ký phức tạp... Còn
bây giờ, dịch vụ Internet không chỉ có mặt ở các đô thị mà đã lan tỏa rộng khắp 64
tỉnh thành, từ những khu dân cư đông đúc đến các bản làng xa xôi... Thậm chí tại một
số vùng quê, nhiều gia đình nông dân đã biết sử dụng Internet để lấy thông tin về
khoa học nông nghiệp, giá cả nông sản... phục vụ cho công việc của mình. Cụ thể,
Internet cũng đã được kết nối tới tất cả các bộ, ngành, chính quyền địa phương cấp
tỉnh và huyện; 100% cơ quan Đảng cấp tỉnh và 90% cơ quan Đảng cấp huyện đã kết
nối Internet; 100% trường trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp, cao đẳng,
đại học đã kết nối Internet. Trong lĩnh vực y tế, đã có 100% các viện nghiên cứu,
bệnh viện trung ương và 90% bệnh viện tỉnh kết nối Internet. Mặt khác, một trong
những điểm mạnh và cũng là thành công của Việt Nam trong việc đưa Internet về
nông thôn là đã có hơn 2.500 điểm Bưu điện văn hóa xã kết nối Internet. Các điểm
truy cập Internet công cộng cũng được phủ tới tất cả các huyện và hầu hết các xã
trong vùng kinh tế trọng điểm và 70% số xã trong cả nước. Đặc biệt, sẽ có 100% các
viện nghiên cứu, trường học từ đại học đến trung học phổ thông, 90% trung học cơ sở
và bệnh viện được kết nối Internet. Theo Quy hoạch Phát triển Internet đến năm
2010, Internet và viễn thông sẽ đạt tốc độ tăng trưởng cao gấp 2 lần tốc độ tăng
trưởng chung của kinh tế xã hội. Mục tiêu đến năm 2010, Internet và viễn thông sẽ
đóng góp khoảng 55.000 tỷ đồng cho nền kinh tế. Quy hoạch đặt ra mục tiêu nâng tỷ
lệ người sử dụng Internet lên 25-30% trong đó có tới 30% là thuê bao băng rộng.
Với tốc độ phát triển từ 35-37%/năm liên tục trong nhiều năm, tỷ lệ người sử dụng
Internet Việt Nam hiện nay đã vượt qua mức trung bình của thế giới là 16,9%. Sau 10
năm, Internet đã thu hút 17.872.165 người sử dụng, chiếm 21.24% dân số Việt Nam.
Mặc dù đã phát triển rất nhanh trong 10 năm, nhưng mức độ khai thác Internet vẫn
chưa được hiệu quả một phần do chất lượng chưa tương xứng với số lượng, mặt khác
do ý thức của người sử dụng. Như hai mặt của một vấn đề, người sử dụng Việt Nam
dẫu chưa biết khai thác hết những ưu việt của Internet nhưng đã rất rành những mặt
trái của nó như blog đen, web đen. Phần lớn những người sử dụng là thanh niên. Họ
sử dụng Internet vào mục đích chơi điện tử trực tuyến, tán gẫu, thảo luận, nghe nhạc,
đọc tin tức, hầu hết tự tìm hiểu để biết sử dụng. Tỉ lệ nam thanh niên tham gia vào
Internet chiếm nhiều hơn nữ. Thanh thiếu niên phần lớn đều biết Internet là một
nguồn thông tin và giải trí. 90,3% thanh thiếu niên ở thành thị và 65,6% ở nông thôn
đã nghe nói về Internet, tuy nhiên tỷ lệ đã sử dụng còn thấp. Chỉ có 17,3% trên tổng