DANH MỤC TÀI LIỆU
Nhà máy cán thép Việt Nhật- Trang bị điện - điện tử dây chuyền công nghệ cán và nghiên cứu hệ thống điều khiển và giám sát nhiệt độ lò nung
ĐỀ TÀI
“Trang bị điện -điện tử dây chuyền
cán thép nhà máy cán thép Việt - Nhật.
Đi sâu nghiên cứu hệ thống điều khiển
giám sát lò nhiệt”
1
1
MỤC LỤC
P ......................................................................................................................... 2
PLỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................... 2
P
PLỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm đầu thế kỷ 21, nền công nghiệp Việt Nam đã những
chuyển biến mạnh mẽ về khoa học công nghệ. Đó kết quả của mối giao
lưu kinh tế ngày càng rộng rãi sự chuyển giao công nghệ tiên tiến từ các
nước phát triển. Các ngành công nghiệp sản xuất trong cả nước đang đứng
trước vận hội mới với trách nhiệm hết sức nặng nề cần phải đổi mới tiếp
thu những công nghệ mới góp phần nâng cao năng suất lao động, đẩy mạnh
công nghiệp hiện đại hoá đất nước, tiến tới hội nhập ngang bằng với các nước
trong khu vực cũng như trên thế giới.
Trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì khoa học
vật liệu kim loại nói chung nền công nghiệp gang thép nói riêng một vị
trí quan trọng trong nền kinh tế của đất nước. Do thép vật liệu chủ yếu của
nhiều ngành công nghiệp vai trò quyết định tới sự nghiệp công nghiệp hoá
- hiện đại hoá đất nước nên phát triển nhanh ngành thép là yêu cầu khách
quan, cấp bách ý nghĩa chiến lược. vậy, phải kết hợp đầu cả về
chiều rộng chiều sâu nghĩa mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm
không ngừng nâng cao thuật công nghệ, cải tiến quy trình sản xuất, đào tạo
đội nsư, công nhân với trình độ chuyên môn cao... thể làm chủ được
dây chuyền sản xuất.
Sau thời gian học tập em được giao đề tài tốt nghiệp: “Trang bị điện
-điện t dây chuyền cán thép nhà máy cán thép Việt - Nhật. Đi sâu
nghiên cứu hệ thống điều khiển giám sát lò nhiệt”.
Đồ án có bố cục gồm 3 chương:
2
- Chương 1: Tổng quan về nhà máy cán thép Việt Nhật.
- Chương 2: Trang bị điện - điện tử dây chuyền công nghệ cán
- Chương 3: Nghiên cu h thng điu khin và giám sát nhit độ lò nung.
3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ CÁN THÉP
1.1. NGÀNH CÔNG NGHIỆP CÁN THÉP VIỆT NAM
1.1.1. Quá trình phát triển của ngành
Ngành thép Việt Nam được xây dựng từ đầu những m 60 của thế kỷ
XX. Khu liên hợp gang thép Thái Nguyên (do Trung Quốc giúp y dựng)
cho ra mẻ gang đầu tiên vào năm 1963. Song do chiến tranh khó khăn
nhiều mặt, 15 năm sau, khu liên hợp gang thép Thái Nguyên mới có sản phẩm
thép cán. Năm 1975, Nhà máy luyện cán thép Gia Sàng do Đức (trước đây)
giúp đã đi vào sản xuất. Công suất thiết kế của cả khu liên hợp gang thép Thái
Nguyên lên đến 10 vạn tấn/năm (T/n).
Năm 1976, Công ty luyện kim đen miền Nam được thành lập trên sở
tiếp quản các nhà máy luyện, cán thép mini của chế độ để lại thành phố
Hồ Chí Minh Biên Hòa, với tổng công suất khoảng 80000 tấn thép
cán/năm. Từ 1976 đến 1989, ngành thép gặp rất nhiều khó khăn do kinh tế đất
nước lâm vào khủng hoảng. Mặt khác, nguồn thép nhập khẩu t Liên
(trước đây) các nước XHCN vẫn còn dồi dào, vậy ngành thép không
phát triển được chỉ duy trì mức sản lượng 40000 - 85000 T/n. Từ năm
1989 đến 1995, thực hiện chủ trương đổi mới, mở cửa của Đảng và Nhà nước,
ngành thép bắt đầu tăng trưởng. Sản lượng thép trong nước đã vượt
ngưỡng 100 000 T/n. Năm 1990 Tổng công ty thép Việt Nam (thuộc Bộ công
nghiệp nặng - nay Bộ công nghiệp) được thành lập, thống nhất quản
ngành sản xuất thép quốc doanh trong cả nước. Đây thời kỳ phát triển i
động, nhiều dự án đầu tư chiều sâu liên doanh với nước ngoài được thực
hiện. Các ngành cơ khí, xây dựng, quốc phòng và các thành phần kinh tế khác
đua nhau làm thép mini. Sản lượng thép cán m 1995 đã tăng gấp 4 lần so
với năm 1990, đạt 450000 T/n bằng mức Liên cung cấp cho nước ta
hàng năm trước 1990. Tháng 4 năm 1995, Tổng công ty thép Việt Nam được
thành lập theo hình Tổng công ty Nhà nước (Tổng công ty 91) trên sở
hợp nhất Tổng công ty thép Việt Nam Tổng công ty kim khí thuộc Bộ
thương mại. Thời kỳ 1996-2000, ngành thép vẫn giữ được tốc đtăng trưởng
khá cao, tiếp tục được đầu mới đầu chiều u; đã xây dựng đưa
vào hoạt động 13 dự án liên doanh, trong đó 12 nhà máy liên doanh cán
4
thép gia công chế biến sau cán. Sản lượng thép cán cả nước năm 2000 đã
đạt 1,57 triệu tấn, gấp hơn 3 lần năm 1995 gấp gần 14 lần năm 1990. Đây
thời kỳ tốc độ tăng sản lượng mạnh nhất. Lực lượng tham gia sản xuất
gia công chế biến thép trong nước rất đa dạng, bao gồm nhiều thành phấn
kinh tế, ngoài Tổng công ty thép Việt Nam và các cơ sở quốc doanh thuộc các
ngành, địa phương khác còn các liên doanh, các công ty cổ phần, công ty
100% vốn nước ngoài các công ty nhân. Tính tới m 2001, nước ta
khoảng 50 doanh nghiệp sản xuất thép xây dựng (chỉ tính doanh nghiệp công
suất >5000 T/n) trong đó 12 dây chuyền cán công suất từ 100000 đến
300000 T/n. Đến nay, theo s liệu của Hiệp hội Thép Việt Nam, sản lượng
thép sản xuất cả nước trong năm 2006 đạt khoảng 35 triệu tấn, tăng 14,27%
so với năm 2005. Trong đó, sản lượng thép sản xuất trong Hiệp hội cả năm
đạt khoảng 2,9 triệu tấn sản lượng sản xuất ngoài hiệp hội khoảng 600.000
tấn. Lượng thép tiêu thụ cùng năm 2006 trên phạm vi cả nước đạt khoảng
3,45 triệu tấn. Tổng công ty thép Việt Nam đã có công suất luyện thép 470000
T/n cán thép 760000 T/n, đang giữ vai trò quan trọng trong ngành thép
Việt Nam.
Ngành thép Việt Nam hiện nay về trình độ công nghệ, trang thiết bị
thể chia ra 4 mức sau:
Loại tương đối hiện đại: Gồm các dây chuyền cán liên tục của Công ty
liên doanh VINA KYOEI, VPS… các dây chuyền cán thép mới sẽ xây
dựng sau năm 2003.
Loại trung bình: Bao gồm c dây chuyền cán bán liên tục như,
NatSteelvina, Tây Đô, Nhà Bè, Biên Hòa, Thủ Đức (SSC) Gia Sàng, Lưu
(TISCO) các công ty cổ phần, công ty nhân (Vinatafong, Nam Đô, Hải
Phòng v.v...).
Loại lạc hậu: Bao gồm các dây chuyền cán thủ công mini của các nhà máy
Nhà Bè, Thủ Đức, Tân Thuận, Thép Đà Nẵng, Thép miền Trung các sở
khác ngoài Tổng công ty thép Việt Nam.
Loại rất lạc hậu: Gồm c dây chuyền cán mini công suất nhỏ
(<20000T/n) và các máy cán của các hộ gia đình, làng nghề.
Chất lượng sản phẩm thép cán y dựng của Tổng công ty thép Việt Nam
khối liên doanh nhìn chung không thua kém sản phẩm nhập khẩu. Sản
5
phẩm của các sở sản xuất nhỏ (<20000 T/n), đặc biệt các sở khâu
luyện thép thủ công chất lượng kém, không đạt yêu cầu.
Hiện nay ngành thép Việt Nam mới chỉ sản xuất được các loại thép tròn
trơn, tròn vằn (10 - 40mm), thép dây cuộn (6 10) thép hình cỡ nhỏ, cỡ
vừa (gọi chung sản phẩm dài) phục vụ cho xây dựng gia công, sản xuất
ống hàn, tôn mạ, hình uốn nguội, cắt xẻ... từ sản phẩm dẹt nhập khẩu gần
đây chúng ta mới sản xuất ra được mẻ thép tấm cán nóng đầu tiên. Khả năng
tự sản xuất phôi thép trong nước còn nhỏ bé, chỉ đáp ứng được khoảng 40%,
còn lại 60% nhu cầu phôi thép cho các nhà máy cần phải nhập khẩu từ bên
ngoài.
Những năm qua, tuy ngành thép đã được đầu đáng kể bước phát
triển tương đối khá mạnh (cả quốc doanh nhân), đạt được tốc độ tăng
trưởng cao, song vẫn còn chậm phát triển so với các nước trong khu vực
thế giới, thể hiện ở các mặt:
- Chất lượng sản phẩm còn hạn chế (nhất khu vực nhân), chỉ một
số dây chuyền cán liên tục tương đối hiện đại thuộc khối liên doanh.
- Cơ cấu mặt hàng sản xuất hẹp, đơn điệu.
- Năng lực sản xuất phôi thép quá nhỏ bé, các nhà máy sở cán thép
còn phụ thuộc nhiều vào phôi thép nhập khẩu.
- Chi phí sản xuất còn cao, năng suất lao động thấp, số lượng lao động quá
đông, giá thành không ổn định (do l thuộc phôi thép nhập khẩu) nên tính
cạnh tranh chưa cao. Khả năng xuất khẩu sản phẩm thép còn rất hạn chế.
1.1.2. Một số định hướng chính trong phát triển
Ngành sản xuất thép phải tiếp tục duy trì được mức tăng trưởng ổn định
bền vững trên sở đảm bảo tính hiệu quả để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, từng bước phát triển thành một trong
những ngành công nghiệp trụ cột của nền kinh tế nước nhà. Cần kết hợp chặt
chẽ phát huy nội lực tranh thủ tận dụng hiệu quả nguồn ngoại lực (vốn,
công nghệ...) chú ý tới xu hướng hội nhập, không bỏ qua các hội được
nhờ xu thế hợp tác phân công lao động quốc tế để đẩy nhanh tốc đ phát
triển ngành. Phát triển cân đối giữa luyện thép cán kéo gia công, giảm dần
tỷ lệ nhập phôi, tiến tới đáp ứng cơ bản nguồn phôi cho sản xuất thép cán kéo.
6
thông tin tài liệu
Trong những năm đầu thế kỷ 21, nền công nghiệp Việt Nam đã có những chuyển biến mạnh mẽ về khoa học và công nghệ. Đó là kết quả của mối giaom lưu kinh tế ngày càng rộng rãi và sự chuyển giao công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển. Các ngành công nghiệp sản xuất trong cả nước đang đứng trước vận hội mới với trách nhiệm hết sức nặng nề cần phải đổi mới và tiếp thu những công nghệ mới góp phần nâng cao năng suất lao động, đẩy mạnh công nghiệp hiện đại hoá đất nước, tiến tới hội nhập ngang bằng với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước thì khoa học vật liệu kim loại nói chung và nền công nghiệp gang thép nói riêng có một vị trí quan trọng trong nền kinh tế của đất nước. Do thép là vật liệu chủ yếu của nhiều ngành công nghiệp có vai trò quyết định tới sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nên phát triển nhanh ngành thép là yêu cầu khách quan, cấp bách và có ý nghĩa chiến lược. Vì vậy, phải kết hợp đầu tư cả về chiều rộng và chiều sâu nghĩa là mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và không ngừng nâng cao kĩ thuật công nghệ, cải tiến quy trình sản xuất, đào tạo đội ngũ kĩ sư, công nhân với trình độ chuyên môn cao... có thể làm chủ được dây chuyền sản xuất
Mở rộng để xem thêm
tài liệu giúp tôi
Nếu bạn không tìm thấy tài liệu mình cần có thể gửi yêu cầu ở đây để chúng tôi tìm giúp bạn!
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×