lý đất đai và lao động, gắn lao động với đất đai và họ thật sự quan tâm đến kết quả lao
động, do vậy kết quả sản xuất nông nghiệp không ngừng tăng lên.
Để đẩy mạnh kinh tế hợp tác trên cơ sở nhận thức mới Đảng ta đã ban hành Chỉ thị
68 khuyến khích phát triển kinh tế hợp tác trên các lĩnh vực trong đó có kinh tế nông
nghiệp với nội dung hoàn toàn mới so với trước đây.
Kiên Giang là một tỉnh mà nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, điều kiện tự nhiên
có nhiều khó khăn, lại có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống, trình độ dân trí thấp,
thu nhập không cao, đời sống còn nhiều thiếu thốn.
Trong những năm cải tạo nông nghiệp, cũng như các tỉnh ở phía Nam, hầu hết nông dân
Kiên Giang đều gia nhập vào tập đoàn sản xuất hoặc hợp tác xã.
Trong tình hình mới có nhiều tập đoàn sản xuất, hợp tác xã không chuyển đổi kịp
bị tan rã; một số còn tồn tại trên danh nghĩa. Một số tập đoàn sản xuất, hợp tác xã chỉ
thực hiện hợp tác một số khâu và đã có tác dụng tích cực giúp hộ kinh tế gia đình hoạt
động tốt. Tuy nhiên, trong điều kiện mới, hoạt động của các hợp tác xã kiểu mới và các
hình thức hợp tác khác trong nông nghiệp còn nhiều lúng túng.
Vì vậy nghiên cứu kinh tế hợp tác kiểu mới trong nông nghiệp ở Kiên Giang là
rất cần thiết. Đã có nhiều đề tài nghiên cứu về kinh tế hợp tác, nhưng nghiên cứu kinh tế
hợp tác trong nông nghiệp trên địa bàn tỉnh là một đề tài mới, chưa được nhiều tác giả đi
sâu đề cập. Do đó tôi chọn đề tài " Phát triển kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở tỉnh
Kiên Giang " để làm luận văn Thạc sĩ kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Nông nghiệp nông thôn nói chung, kinh tế hợp tác và hợp tác xã nông nghiệp nói
riêng là một trong những vấn đề được Đảng và Nhà nước luôn quan tâm. Trong suốt quá
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, đặc biệt từ khi có Nghị quyết 10 của Bộ
Chính trị cho đến nay, vấn đề kinh tế hợp tác và hợp tác xã trong nông nghiệp là chủ đề
nghiên cứu được nhiều cơ quan khoa học, nhiều nhà nghiên cứu và các cán bộ chỉ đạo
thực tiễn quan tâm. Trong đó nhiều công trình đã được công bố như: