được sinh ra thấp tới mức tỷ lệ người chết sẽ sớm vượt quá tỷ lệ sinh, ước tính vào năm
2006 hoặc 2007 dân số sẽ giảm dần2.
Đặc trưng về địa hình nhiều đồi núi, diện tích đất canh tác hạn chế, quy mô sản xuất nông
nghiệp quá nhỏ không đạt hiệu quả tương xứng với 1 nền kinh tế đô thị hiện đại. Chính vì
vậy, để bảo vệ một số ngành hàng nông nghiệp của mình, Nhật Bản áp đặt hàng rào thuế
quan cao. Hàng rào thuế quan cao đã góp phần đẩy chi phí sản xuất lương thực của Nhật
Bản lên cao. Mặc dù được bảo hộ nhiều như vậy, nhưng hàng năm, Nhật Bản vẫn phải
nhập khẩu hơn 50 tỷ USD hàng nông sản như đậu tương (95%), lúa mỳ (gần 90%), thịt
bò (gần 70%, thịt lợn (gần 30%) rau (20%), quả (trên 50%), vv.... Ngoài ra những sản
phẩm phải nhập khẩu hoàn toàn do trong nước không sản xuất như cà phê, hồ tiêu, điều,
cao su vv...
Tại vòng đàm phán Doha, xu thế đòi các nước phát triển giảm trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ
trong nước đối với nông sản diễn ra mạnh mẽ. Nhật Bản sẽ tiếp tục đối mặt với nhiều bất
lợi hơn nữa đối với nông nghiệp. Thị trường trong nước sẽ tiếp tục chịu sức ép cạnh tranh
với hàng nhập khẩu. Nhật tiếp tục là nước nhập siêu nông sản lớn.
1.2. Thương mại nông sản của Nhật Bản
Nhập khẩu nông nghiệp của Nhật Bản thuộc loại cao trên thế giới, hàng năm nhập khẩu
khoảng chừng trên 50 tỷ USD. Trong khi đó xuất khẩu nông sản chỉ đạt chừng xấp xỷ 10
tỷ USD, nên Nhật Bản phải nhập siêu nông sản đến hơn 40 tỷ USD hàng năm. USDA
ước tính nếu dựa trên tổng calo tiêu thụ, hàng năm, Nhật Bản nhập khẩu khoảng 60%
lương thực. Mặc dù nhập khẩu nông sản lớn song tỷ trọng nhập khẩu nông sản trong tổng
kim ngạch nhập khẩu của quốc gia chỉ đạt khoảng 15% và có xu hướng giảm xuống.
Trong các nước xuất khẩu nông sản sang Nhật Bản, Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng cao nhất
khoảng chừng 30%. Trung Quốc và 15 nước EU là những nhà xuất khẩu lớn tiếp theo
vào thị trường Nhật Bản, mỗi nước chiếm hơn 12% giá trị nhập khẩu của Nhật Bản.
Thương mại nông sản của Nhật Bản (triệu USD)
2Xu hướng những công dân già nhất của Nhật Bản được chăm sóc trong các trung tâm
dưỡng lão hoặc trong các khu tập thể dành cho người già ngày càng tăng lên, chứ không
phải trong ngôi nhà của thế hệ con cháu họ. Những gia đình hiện đại có quy mô nhỏ (có 1
hoặc 2 con) cùng với xu hướng phụ nữ đi làm càng góp phần làm tăng sự tín nhiệm đối
với các trung tâm chăm sóc cho người già. Các dịch vụ chăm sóc trẻ em cũng đang tăng
lên. Những sự thay đổi này làm cho nhu cầu tiêu thụ và chi phí dành cho lương thực tăng
lên.
6