Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khóa 2007-2008
Nghiên cứu tình huống
Kinh tế học vi mô
Tình huống 3
Mô hình tập đoàn kinh tế
1
Nghiên cứu tình huống
MÔ HÌNH TẬP ĐOÀN KINH TẾ1
Tập đoàn kinh tế trên thế giới2
Tập đoàn kinh tế là một tổ hợp các công ty độc lập về mặt pháp lý, hoạt động đa ngành (thường
không liên quan trực tiếp với nhau), được kết nối với nhau bởi những mối liên kết pháp lý chính
thức (ví dụ như quan hệ vốn sở hữu) hay không chính thức (ví dụ như quan hệ gia đình).
Tập đoàn kinh tế là một mô hình rất phổ biến ở các nền kinh tế mới nổi (như Bra-xin, Chi-lê,
Trung Quốc, Ấn-độ, In-đô-nê-xia, Hàn Quốc, Mê-hi-cô, Pa-kix-tan, Thái-lan, và nhiều nước
khác), và thậm chí ở cả một số nền kinh tế phát triển (như Ý, Thụy Điển). Trong những nước
được liệt kê ở Bảng 1, số công ty nằm trong tập đoàn chiếm tỷ lệ khá cao, từ khoảng 1/5 ở Chi-lê
cho tới gần 2/3 ở In-đô-nê-xia. Bảng 1 cũng cho thấy rằng trừ Thổ Nhĩ Kỳ ra thì quy mô trung
bình của các công ty trong tập đoàn lớn hơn nhiều so với các công ty ngoài tập đoàn.
Bảng 1: Các tập đoàn trên thế giới
Quốc gia Thời
gian
Tỷ lệ
công ty
thuộc tập
đoàn (%)
Quy mô cty
trung vị trong
tập đoàn/Quy
mô cty trung vị
ngoài tập đoàn
ROA của
cty trung vị
trong
tập đoàn
ROA của
cty trung vị
ngoài
tập đoàn
Độ lệch
chuẩn ROA
của cty trung
vị trong
tập đoàn
Độ lệch
chuẩn ROA
của cty trung
vị ngoài
tập đoàn
Ác-hen-ti-na 1990–97 44% 5,5 3,9 7,8** 3,7 4,9**
Bra-xin 1990–97 47% 2,5 3,3 1,8** 4,1 5,1
Chi-lê 1989–96 22% 18,7 5,9 2,2* 4,4 4,1,
Ấn-độ 1990–97 33% 4,4 11,7 9,6* 4,6 4,4*
In-đô-nê-xia 1993–95 65% 2,8 7,3 7,8 1,9 2,5*
I-xa-ra-en 1993–95 23% 5,0 6,3 3,9* 2,1 2,6
Hàn Quốc 1991–95 51% 3,9 4,8 5,1 1,9 2,6*
Mê-hi-cô 1988–97 35% 2,3 8,2 6,1 3,1 2,6
Phi-líp-pin 1992–97 25% 3,4 7,3 4,0 2,5 2,9
Đài Loan 1990–97 44% 2,0 5,1 6,2 1,7 2,3**
Thái-lan 1992–97 62% 2,3 2,9 4,4* 4,3 4,9**
Thổ-nhĩ-kỳ 1988–97 53% 1,0 24,6 26,3 6,2 9,1
Nhật Bản
trước Thế
chiến 2
1932–43 29% 6,8 5,5 6,4 4,4 7,1
Ghi chú: Các số liệu trong bảng được xây dựng dựa vào năm số liệu đầy đủ nhất của mỗi quốc gia. Số liệu của Nhật
Bản trước chiến tranh thế giới thứ 1 chỉ dựa vào số lượng công ty thành viên trong 3 tập đoàn (zaibatsu) lớn nhất mà
thôi. Mức ý nghĩa trong các phân tích so sánh ROA và độ lệc chuẩn ROA của các công ty trong và ngoài tập đoàn
được dựa vào phép thử Wilcoxon (Wilcoxon signed-rank tests). Những công ty có mức lợi nhuận cao hơn 100% và
1 Tình huống này do Vũ Thành Tự Anh soạn dựa trên những nghiên cứu của FETP và nguồn thông tin đã được công
bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các nghiên cứu tình huống của Chương trình Giảng dạy Kinh
tế Fulbright được sử dụng làm tài liệu thảo luận trên lớp học, chứ không nhằm mục đích ủng hộ hay phê bình đối với
các chính sách cụ thể.
2 Về mặt thuật ngữ, “business group” nên được dịch là “tập đoàn kinh doanh”. Tuy nhiên, để tránh sự bất tiện do sử
dụng hai tên gọi khác nhau nên bài viết này vẫn sử dụng tên gọi “tập đoàn kinh tế”.