DANH MỤC TÀI LIỆU
Thomas Friedman Chiếc xe Lexus và cây Oliu
1
CHIẾC XE LEXUS VÀ CÂY OLIU
Thomas L.Friedman
Washington DC
1/02/1999
LỜI MỞ ĐẦU: THẾ GIỚI 10 NĂM TUỔI
Thật bực mình - chúng ta không việc để m Nga hay châu Á. Chúng ta chỉ
thể kinh doanh cỏn con trong phạm vi quốc gia để cố gắng tăng trưởng nhưng
chúng ta bị ngăn cản bởi cách mà các chính phủ điều hành quốc gia.
- Douglas Hanson, Giám đốc điều hành công ty Rocky Mountain Internet đã nói
như vậy trên Tạp chí phố Wall sau cuộc khủng hoảng tài chính dây chuyền năm
1998 buộc công ty của ông phải hoãn việc phát hành đợt trái phiếu danh trị giá
175 triệu USD.
Rạng sáng ngày 8/12/1997, chính phủ Thái Lan tuyên bố đóng cửa 56 trên tổng số
58 công ty tài chính hàng đầu. Chỉ qua một đêm, các ngân hàng nhân này đã rơi
vào tình trạng phá sản do sự mất giá của đồng nội tệ (đồng Bath). Các công ty tài
chính vay một ợng lớn tiền bằng đồng đô la Mỹ sau đó cho các doanh nghiệp
Thái vay lại để xây dựng khách sạn, văn phòng, những toà địa ốc sang trọng các
nhà máy. Tất cả họ đều nghĩ rằng mình được an toàn bởi chính phủ đã cam kết giữ
chặt tgiá cố định giữa đồng Baht đồng đô la Mỹ. Tuy nhiên khi chính phủ
không m được điều đó, tiếp sau đó các hoạt động đầu được thực hiện chống
lại đồng Bath thì các giới thương nhân hiểu rằng nền kinh tế của họ không hề khoẻ
mạnh như họ vốn nghĩ. Đồng nội tệ đã giảm tới 30%. Điều này có nghĩa là giới kinh
doanh vay bằng đồng đô la sẽ phải trnhiều hơn 30% giá trị đồng Bath cho mỗi
một đồng vốn vay. Nhiều công ty không còn khả năng trả nợ cho các công ty tài
2
chính, các công ty tài chính không thể trả nợ cho các chủ nợ ớc ngoài kết quả
toàn bộ hệ thống i vào khủng hoảng, khiến 20.000 nhân viên văn phòng mất
việc làm. Một ngày sau đó, tôi lái xe tới một cuộc hẹn Băng Cốc, phố Asoke -
được như là phố Wall của Thái Lan, nơi hầu hết các công ty tài chính phá sản
đóng trụ sở. Chúng i chầm chậm lái xe qua từng công ty chứng khoán trái
phiếu Mêhicô, để tiền dưới mỗi tấm nệm hoặc két an toàn để họ có thể tìm thấy. Sự
sụp đổ của thị trường Braxin bất kỳ thị trường mới nổi nào khác gây ra phản ứng
dây chuyền đối với cả trái phiếu kho bạc Mỹ. Ngược lại, sự gia tăng giá trị của trái
phiếu kho bạc Mkhiến cho lãi suất chính phủ Mđưa ra để thu hút các nhà
đầu giảm xuống đồng thời làm tăng giá trái phiếu của Mỹ trái phiếu khác
cũng như sự tăng giá trên những thị trường trái phiếu mới nổi.
Sự sụt giá quá mạnh của trái phiếu Kho bạc Mỹ cũng tạo ra phản ứng dây chuyền
làm tê liệt hoạt động của các quỹ phòng ngừa rủi ro các ngân hàng đầu tư. dụ
như trường hợp Công ty quản vốn dài hạn LTCM đóng tại Greenwich,
Connecticut. LTCM công ty mẹ của tất cả các quỹ phòng ngừa rủi ro. Do nhiều
quỹ phòng ngừa bắt đầu tham gia vào thương trường cuối những năm 80 nên cạnh
tranh trong khu vực này khá gay gắt. Mọi người đều chộp lấy cơ hội. Để kiếm được
tiền trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như vậy, các quỹ phòng ngừa đã phải đánh
cuộc may rủi. LTCM đã nhờ tới 2 nhà kinh tế học đoạt giải thưởng Nobel, những
người đã chỉ ra rằng slên xuống của chứng khoán trái phiếu thể dự đoán
được từ trong quá khứ. Với việc sử dụng hình y tính vay từ nhiều ngân
hàng khác nhau, LTCM đã đặt cược 120 tUSD vào trò chơi may rủi với hy vọng
rằng giá của các loại trái phiếu lớn sẽ tăng giá vào mùa 1998. LTCM đánh cược
rằng giá trái phiếu Kho bạc Mỹ sẽ giảm giá của các loại trái phiếu danh
trái phiếu của các thị trường mới nổi khác sẽ tăng. Tuy nhiên mô hình y tính của
LTCM chưa bao giờ dự đoán sự kiện nào ảnh hưởng toàn cầu tương tự nên
không lường được sự sụp đổ của Nga hồi tháng 8. Kết quả LTCM thua cuộc. Khi
toàn bộ thế giới đầu rơi vào khủng hoảng đổ dồn m mua trái phiếu Mỹ, giá
loại trái phiếu này đã tăng mạnh thay sụt giảm trong khi giá của các loại trái
phiếu khác lại giảm thay tăng. LTCM giống như một cái xương đòn chịu tác
động từ nhiều phía trừ phần gốc. đã phải nhờ tới sự giúp đỡ của các ngân hàng
để tránh tình trạng bán tống bán tháo toàn bộ số trái phiếu chứng khoán đang
nắm giữ trong bối cảnh toàn thị trường tài chính thị trường lâm vào khủng hoảng
dây chuyền.
3
Bây giờ chúng ta sẽ trở lại với câu chuyện của khu phố tôi. Đầu tháng 8/1998, tôi đã
đầu tư một khoản tiền vào ngân hàng Internet mới mở của một người bạn. Mệnh giá
cổ phiếu mới đầu 14,5 USD/cổ phiếu sau đó đã tăng lên 27 USD. Tôi cảm thấy
như một giấc mơ. Nhưng sau sự kiện sụp đổ Nga y ra phản ứng y chuyền,
giá cổ phiếu của công ty bạn tôi chỉ n 8 USD. Tại sao lại nvậy ? Đó là vì ngân
hàng của anh ta giữ rất nhiều tài sản thế chấp. Với sự sụt giảm của lãi suất Mỹ,
mọi người đổ trái phiếu kho bạc Mỹ. Nhiều người đã lo ngại rằng mọi người
sẽ thanh tài sản thế chấp. Nếu quả thực mọi sự diễn ra như vậy, ngân hàng của
bạn tôi sẽ không đủ sức trang trải cho các khách hàng huy động vốn. Song trên thực
tế dự báo thị trường đã sai giá cổ phiếu của công ty lại tăng dần. Đầu m 1999,
một lần nữa tôi lại cảm giác như đang sống trong khi tập đoàn Amazon.com
Internet bắt đầu phát triển chú ý tới cổ phiếu của ngân hàng bạn tôi, giá cổ phiếu
đã tăng rất mạnh. Giá của các loại cổ phiếu công nghệ khác chúng tôi có cũng
tăng mạnh. Nhưng một lần nữa điều này đã không kéo dài trước khi cả thế giới
muốn dự tiệc. Thời gian đó, thaysự sụp đổ của thị trường chứng khoán Nga là sự
sụp đổ của thị trường chứng khoán Braxin các thị trường Mỹ, kìm hãm tốc độ
phát triển của cổ phiếu Internet.
Tôi theo dõi toàn bộ sự kiện này tất cả điều tôi thể nghĩ tới phải mất
chín tháng sự kiện diễn ra phAsoke mới ảnh hưởng tới phố tôi còn ảnh hưởng
của Amzon Braxin (Amazon.country) tới Amazon.com chỉ diễn ra trong vòng 1
tuần. Tờ báo ớc M ngày nay (USA Today) đã tổng kết về thương trường thế
giới thời điểm cuối năm 1998 bằng một câu rất chính xác : "Khủng hoảng lan sang
lục địa này sau khi diễn ra lục địa kia giống như sự lay lan của virus. Các thị
trường Mỹ phản ứng ngay lập tức…. Trong tiệm cắt tóc người ta cũng bàn luận về
đồng Baht của Thái Lan".
Nếu không đề cập tới vấn đề nào khác thì chỉ riêng câu chuyện từ phAsoke tới
phố tôi từ Amazon.country tới Amazon.com cũng đủ để tôi nhiều người khác
nghĩ về thế giới ngày nay. Hệ thống Chiến tranh lạnh chậm chạp, kiên cố, chia cắt
thống trị thương mại quốc tế từ năm 1945 dần dần được thay thế bằng một hệ thống
mới thông suốt, kết nối toàn cầu chúng ta gọi toàn cầu hoá. Tất cả chúng ta
đang ở trên cùng một dòng sông. Nếu không hiểu rõ bối cảnh của năm 1989 khi bức
tường Berlin sụp đổ thì đảm bảo rằng một thập kỷ sau đó chúng ta đã am hiểu tường
tận. Quả thực, ngày 11/10/1998, khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu lên đến
4
đỉnh điểm, Merrill Lynch đã đăng một bài quảng cáo đầy trang trên các tờ báo lớn
trên toàn nước Mỹ với tiêu đề : "Thế giới mười năm tuổi".
Đó thế giới được khai sinh sau khi bức tường Berlin sụp đổ năm 1989. Không ai
ngạc nhiên về một nền kinh tế còn quá non trẻ mới phôi thai-nền kinh tế toàn cầu.
Những thăng trầm, kiểm nghiệm đã chứng tỏ rằng sự ổn định của các nền kinh tế
tuỳ thuộc vào thời gian. Nhiều thị trường trên thế giới mới chỉ mở cửa tự do gần
đây, trước đây bị thống trị bởi ý muốn chủ quan của con người chứ không phải của
nhà nước. Từ nơi chúng ta ngồi, một thập niên trước đây, không ai thôi dự đoán về
sự sụp đổ của một thế giới không tường chắn. Song, sự phát triển của các th
trường tự do dân chủ trên toàn thế giới cho phép mọi người bất cứ nơi nào
cũng có thể kỳ vọng vào những thành công trong tương lai. Và công nghệ phát triển
trở thành sức mạnh, không chỉ xoá bỏ ranh giới về mặt địa lý mà còn xoá bỏ những
ngăn cách giữa mọi người. Dường như sau 10 năm, thế giới tiếp tục hứa hẹn nhiều
điều mới. Và không ai có thể nói rằng tăng trưởng là dễ dàng.
Quả thực, bài báo của Merill Lynch đã đúng phần nào khi cho rằng toàn cầu hoá đã
tròn 10 tuổi. từ giữa thập kỷ 1800 đến 1920, thế giới cũng đã từng trải qua thời
kỳ toàn cầu hoá. Nếu so sánh khối lượng thương mại dòng vốn chảy giữa các
quốc gia với GNP và dòng lao động di với dân số, quá trình toàn cầu hoá trước
Thế chiến lần thứ 1 gần giống với những chúng ta đang sống m nay.
Vương quốc Anh, sau đó thống trị toàn cầu, nhà đầu lớn nhất vào những thị
trường mới nổi. Những bản kếch Anh, châu Âu Mỹ thường bị đánh bại
bởi các cuộc khủng hoảng tài chính, châm ngòi bằng sự kiện trái phiếu đường sắt
Argentina hay trái phiếu chính phủ Latvia, trái phiếu chính phủ Đức. Không sự
kiểm soát tiền tệ thế năm 1866 tuy không cáp xuyên Đại Tây ơng song
những cuộc khủng hoảng tài chính và ngân hàng ở NewYork cũng nhanh chóng ảnh
hưởng tới Luân Đôn hay Paris. Tôi đã từng lần nói chuyện với John Monks,
người đứng đầu Liên đoàn thương nghiệp Anh, AFLCIO của Anh, người đã cho
rằng chương trình nghị sự của Quốc hội lần thứ nhất TUC Manchester, Anh m
1868 nhiều vấn đề cần thảo luận:" Điều cần thiết phải giải quyết vấn đề cạnh
tranh ở các nước thuộc địa châu Á" và "Cần phải học tập các tiêu chuẩn giáo dục và
đào tạo của Mỹ Đức". Vào thời điểm đó, đã xảy ra hiện tượng di dân nhiều hơn
chúng ta nghĩ trong thời kchiến tranh, trước 1914, các nước không yêu cầu
phải có hộ chiếu khi đi du lịch. Những người dân di sang M không cần phải
visa. Khi bạn gắn kết các nhân tố lại với nhau cùng với những phát minh sáng
5
chế tầu thủy chạy bằng hơi nước, điện báo, đường sắt và cuối cùng là điện thoại bạn
thể nói rằng kỷ nguyên đầu tiên của toàn cầu hoá trước chiến tranh thế giới lần
thứ nhất đã thu hẹp thế giới từ rộng lớn thành một thế giới quy mô vừa.
Kỷ nguyên đầu của toàn cầu hoá chủ nghĩa bản tài chính thế giới đã bị phá vỡ
bằng cuộc cách mạng tháng 10 Nga sự sụp đổ của chủ nghĩa đế quốc. Thế giới
được phân chia lại. Còn việc phân chia lại thế giới sau Thế chiến II không thực hiện
được chiến tranh lạnh. Chiến tranh lạnh cũng một hệ thống quốc tế, kéo dài từ
1945 đến 1989 khi bức tường Berlin sụp đổ và thay hệ thống này bằng một hệ thống
mới : knguyên mới của toàn cầu hoá chúng ta đang sống "Toàn cầu hoá lần
II". Như vậy kể từ lúc mới khai sinh, toàn cầu hoá bị gián đoạn 75 m bắt đầu
bằng Chiến tranh thế giới thứ nhất và kết thúc bằng Cuộc chiến tranh lạnh.
rất nhiều điểm giống nhau giữa quá trình toàn cầu hoá trước đây và quá trình
toàn cầu hoá chúng ta đang sống hiện nay. Điểm mới có chăng chỉ quy mô và
cường độ toàn cầu hoá. cái mới nữa số lượng người số nước tham gia vào
quá trình toàn cầu hoá cũng như chịu ảnh hưởng của quá trình y. Toàn cầu h
trước 1914 vẻ như diễn ra với cường độ khá mạnh nhưng không sự tham dự
của các nước đang phát triển. Quy của toàn cầu hoá trong thời gian đó cũng lớn
hơn song không mạnh như ngày nay. Năm 1900, giao dịch ngoại hối hàng ngày lên
tới hàng triệu đôla. Trong khi đó, theo Cục dự trữ liên bang NewYork, m 1992
con số trên đạt 820 tỷ USD, tháng 4/1998 là 1,5 nghìn tỷ USD mỗi ngày và còn tăng
nữa. Thập kvừa qua, chỉ tính riêng cho vay quốc tế của các ngân hàng trên toàn
thế giới đã tăng lên gấp đôi. Năm 1900, dòng vốn nhân chảy từ các nước phát
triển sang các nước đang phát triển tính bằng hàng trăm triệu đô la chỉ một số ít
nước tham gia vào quá trình luân chuyển vốn này. Theo thống kê của IMF, chỉ tính
riêng m 1997, dòng đầu từ các nước phát triển sang các thị trường mới nổi đạt
215 tỷ USD. So với k nguyên toàn cầu hoá trước đây, kỷ nguyên toàn cầu hoá
ngày nay diễn ra mạnh mẽ hơn.
Toàn cầu hoá ngày nay không chỉ khác về mức độ còn khác về dạng thức. Theo
tạp chí Nhà kinh tế (The Economists), toàn cầu hoá trước đây được xây dựng bằng
việc cắt giảm chi phí vận chuyển. Nhờ những sáng kiến, phát minh đường xe lửa,
tàu thủy chạy bằng hơi nước ô tô, mọi người thể đi đến mọi nơi các giao
dịch thương mại diễn ra cũng nhanh, rẻ hơn. Còn toàn cầu hoá ngày nay được xây
dựng với việc cắt giảm chi phí viễn thông nhờ vi mạch, vệ tinh, cáp quang
internet. Những công nghệ mới này có thể kết nối thế giới chặt hơn. Công nghệ mới
6
cũng nghĩa các nước đang phát triển sẽ không phải xuất nguyên liệu thô sang
phương Tây và nhập về sản phẩm cuối cùng, họ có thể trở thành những nhà sản xuất
lớn. Công nghệ mới cũng cho phép các công ty lắp đặt các khâu của quy trình sản
xuất các nơi khác nhau, tiến hành nghiên cứu thực hiện hoạt động marketing
mọi quốc gia mà không hề có sự gián đoạn vì chúng được kết nối qua hệ thống máy
tính điện thoại đặt một vị trí. Cũng chính nhờ mạng ới máy tính cước
viễn thông rẻ nên ngày nay mọi người thể chào hàng tiến nh cung cấp dịch
vụ trên phạm vi toàn cầu - từ những tiến bộ về y học tới phần mềm, viết và xử lý dữ
liệu - những sản phẩm chưa từng được mua bán trao đổi trước đây. tại sao lại
không ? Theo The Economists, năm 1930, một cuộc gọi giữa NewYork Luân
Đôn kéo dài 3 phút phải mất 300 USD thì ngay nay cuộc gọi đó thể thực hiện
gần như là miễn phí thông qua Internet.
Nhưng cái tạo ra một kỷ nguyên toàn cầu hoá độc nhất nhị như hiện nay không
phải là sự tồn tại của những công nghệ trên khả năng gắn kết của những công
nghệ y. Mọi quốc gia, doanh nghiệp thể đến được với nhau một cách nhanh
hơn, rẻ hơn, nhiều hơn. Ngay cả bản thân mỗi nhân cũng vậy. Điều này nhắc tôi
nhớ lại một ngày mùa 1998 khi người mẹ 79 tuổi của tôi, Margaret Friedman,
sống ở Minncapolis gọi cho tôi với giọng rất buồn rầu. Tôi hỏi : "Có chuyện gì phải
không mẹ?" nói : "Mẹ chơi brit qua mạng với 3 người đàn ông Pháp, họ nói
chuyện với nhau bằng tiếng Pháp mchẳng hiểu cả". Khi tôi bật cười nghĩ
rằng mẹ tôi đã gian lận khi chơi brit với 3 người Pháp qua mạng mẹ tôi vẻ như
hơi phật ý. Bà nói: "Đừng cười con trai, mẹ đang chơi brit với một số người Siberi".
Với những người cho rằng toàn cầu hoá ngày nay không khác mấy so với trước đây,
tôi chỉ hỏi một câu đơn giản : "năm 1990, ông bạn thể chơi brit với người
Pháp qua mạng không ?" Tôi nghĩ không. một vài điểm của toàn cầu hoá hiện
nay giống với những gì mà chúng ta đã thấy trước đây và cũng có những điểm trước
đây chưa từng một vài điểm chúng ta thậm chí chưa hiểu hết. Do vậy, tôi
có thể nói sự khác biệt giữa 2 kỷ nguyên toàn cầu hoá như sau : Nếu k nguyên toàn
cầu hoá đầu tiên đưa thế giới từ quy lớn về một thế giới quy vừa thì k
nguyên toàn cầu hoá thứ 2 thế giới từ quy mô vừa trở thành thế giới thu nhỏ.
Cuốn sách y tập trung giải toàn cầu hoá trong knguyên mới đã thống trị hệ
thống quốc tế cuối thế kỷ 20 - thay thế hệ thống chiến tranh lạnh như thế nào
kiểm chứng ảnh hưởng của đối với chính trị quan hệ quốc tế ra sao? Về mặt
này thể nói toàn cầu hoá góp phần hình thành nên thế giới thời kỳ hậu chiến
tranh lạnh. Để hiểu hơn, tìm đọc thêm 4 quyển sách sau : Sự thăng trầm của các
siêu cường: những thay đổi về kinh tế xung đột quân sự từ 1500 đến 2000 của
thông tin tài liệu
Cuốn sách này rất khó đọc tôi tin rằng nếu bạn muốn hiểu về thế giới hậu chiến tranh lạnh bạn phải bắt đầu tìm hiểu hệ thống thế giới mới- toàn cầu hóa. Đó là một thế giới rộng lớn mà mọi người đều nên quan tâm tới. Cái mới của hệ thống này là tuổi đời của các tổ chức xã hội, sự hỗn độn mâu thuẫn trong khai sáng văn minh và tự do hóa.Quốn sách này đã chỉ ra cách thức mà bối cảnh trên diễn ra và làm sao để kiểm soát nó.
Mở rộng để xem thêm
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×