DANH MỤC TÀI LIỆU
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI THỊ TRƯỜNG
1
BỘ MÔN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
................
TIỂU LUẬN
HP: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Đề tài: Thực trạng và giải pháp phát triển các
loại thị trường ở Việt Nam.
2
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam một quốc gia nhỏ còn non trẻ thuộc vùng Đông Nam
Châu Á, một dân tộc anh hùng với bao phen vào sinh ra tử để bảo vệ nền độc lập
của dân tộc, nay cũng đang chứng minh với toàn thế giới họ cũn một dân
tộc anh hùng trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Từ Đại hội VI, VII, VIII đến đại hội IX của Đảng nhiều tư duy nhận thức
mới đã được rút ra trở thành các quan điểm mới. Đảng ta đã khẳng định đổi
mới nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa” Việt Nam hoàn toàn đúng đắn cấp
thiết. Để phát triển nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa của ta cần xây
dựng phát triển đồng btất cả các loại thị trường, những loại thị trường còn
đang hết sức mới mẻ ở Việt Nam. Việc hình thành đồng bộ các loại thị trường là
một yêu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
“có thể thể sống phải có đầy đc bộ phận của cơ thể”. Tuy nhiên trong
thể sống mọi bộ phận không thể cùng một lúc được hình thành phát triển
như thể đã trưởng thành. Nền kinh tế cũng vậy, để thể vận hành được thì
phải nhen nhóm ấp ủ hình thành và phát triển dần từng bước.
Nghị quyết đại hội Đảng IX đã khẳng định: “Thúc đẩy sự hình thành phát
triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng hội chủ
nghĩa, đặc biệt những thị trường còn khai như: thị trường lao động, thị
trường chứng khoán, thị trường vốn, thị trường khoa học công nghệ”.
Theo mục tiêu đến năm 2020 nước ta bản trở thành một nước công
nghiệp, đảm bảo dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Việc nghiên cứu định hình phát triển các loại thị trường nước ta đã
được rất nhiều viện nghiên cứu kinh tế quốc gia nghiên cứu.
Xuất phát từ những vấn đề đã nêu trên, em đã chọn đề tài Thực trạng
giải pháp phát triển các loại thị trường Việt Nam” đhoàn thành bài tiểu
luận này.
3
NỘI DUNG CHÍNH
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỊ TRƢỜNG
I. Các khái niệm và chức năng của thị trƣờng
Nước ta đang chuyển dịch dần nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường định hướng hội chnghĩa dưới sự quản của Nhà
nước đang có những bước đi có hiệu quả. Để hiểu được cách vận hành và vai trò
của nó đối với nền kinh tế ra cần hiểu rõ bản chất của nó.
Thị trường phạm trù kinh tế gắn liền với phân công lao động hội
sản xuất hàng hóa VI.Lênin nói: “Ở đâu khi nào phân công lao động xã
hội sản xuất hàng hóa tđó khi ấy thị trường”. Việc hình thành nền
kinh tế thị trường nước ta hoàn toàn hợp bởi lẽ kinh tế thị trường là hình
thức hội của tổ chức hoạt động kinh doanh trong đó các quan hệ kinh tế
giữa các nhân, giữa các doanh nghiệp đều được thực hiện thông qua trao đổi,
mua bán hàng hóa dịch vụ trên thị trường. Kinh tế thị trường xuất hiện như
một yêu cầu khách quan của nền kinh tế hàng hóa - việc phát triển nền kinh tế
thị trường đồng hành với phát triển đồng bộ, tức phát triển đồng thời,
từng bước các loại thị trường kèm theo như thị trường vốn, hàng hóa dịch vụ
Nền kinh tế thị trường đem lại cho nền kinh tế một luồng sinh khí mới, một con
đường phát triển nhanh hơn, thuận lợi hơn. Nền kinh tế thị trường giúp cho nền
kinh tế vận hành phát triển theo sự điều tiết của thị trường , theo các quy luật
của thị trường nquy luật giá trị, quy luật cung cầu… Bản thân nền kinh tế thị
trường đã làm giảm gánh nặng cho chính phủ, chính phủ không cần quản mọi
việc như trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung nữa, Nhà nước chỉ cần định
hướng và quản lý cho đúng đắn và hợp lý. Nói đến thị trường là nơi mà ở đó mọi
người trao đổi, giao lưu nhằm thoả mãn nhu cầu của mình và người khác, không
phải hẹp , không phải phụ thuộc với nhiều mối quan hệ mua bán, bán mua
phức tạp, phong phú.
4
II. Phát triển đồng bộ các loại thị trƣờng Việt Nam một tất
yếu khách quan
Thực tiễn việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường nước ta trong thời gian qua cho thấy dù muốn hay không,
một khi đã chấp nhận nền kinh tế thị trường, hay nền kinh tế vận hành theo
chế thị trường , hay nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì điều
cốt lõi nhất vẫn phải có thị trường. Một khi đã chấp nhận sự hiện hữu của thị
trường thì cần phải có đầy đủ các loại thị trường. Cuộc chuyển đổi sang nền kinh
tế thị trường của các nền kinh tế hội chnghĩa Đông Âu Liên trước
đây, áp dụng liệu pháp sốc như Balan, Nga hay tiệm tiến như Hungari,
Bungari thì cũng vẫn việc xây dựng một nền kinh tế thtrường có đầy đủ các
loại thị trường với đầy đủ các bộ phận cấu thành của nó. Công cuộc chuyển sang
kinh tế thị trường của Trung Quốc tiệm tiến hơn, đò đá qua sông, nhưng
không tránh việc xây dựng các loại thị trường. nước ta cũng vậy, chúng ta
cần xây dựng đầy đủ các loại thị trường để nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa Việt Nam vận hành có hiệu quả.
Năm 1986, Đại hội Đảng VI đã đánh dấu mốc lịch sử khởi xướng công
cuộc đổi mới ở nước ta. Từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp chuyển sang
chế thị trường sự quản của Nhà nước một bước ngoặt quan trọng
trong nền kinh tế Việt Nam. Với chế cũ, nền kinh tế nước ta thiếu động lực
khi nguồn viện trợ từ Liên các nước hội chủ nghĩa không n, nền
kinh tế nước ta rơi vào khủng hoảng.
Từ đổi mới duy đến đổi mới chế xây dựng hàng loạt chính sách,
luật pháp theo thị trường, nước ta đã trải qua một thời kỳ tự tìm kiếm đầu ra cho
các sản phẩm. Từ chế kế hoạch hoá tập trung sang chế thị trường một
chặng đường lịch sử nhiều nước trên thế giới trong h thống hội chủ
nghĩa đã trải qua, trả giá và phải chuyển đổi.
Trước đổi mới kinh tế, nước ta gặp nhiều khó khăn , sản xuất đình trệ,
tăng trưởng thấp, lương thực thiếu, hàng tiêu dùng khan hiếm nghiêm trọng, giá
cả tăng nhanh, đời sống dân cư kkhăn thiếu thốn. Nhiều công trình xây dựng
5
bị đình lại không vốn. Ngân sách thiếu hụt, cán cân thương mại mất cân
đối nghiêm trọng, nhập khẩu gấp 4-5 lần xuất khẩu. Kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất (1976-1980) cũng là kế hoạch 5 năm lần đầu khi đất nước được giải phóng,
chúng ta không đạt được các mục tiêu bản. hình kế hoạch hóa tập trung
xâm nhập vào miền Nam yếu ớt. Việc cải tạo tư bản và hợp tác hoá ở miền Nam
không mang lại kết quả. Nhiều hình, chính sách được đưa ra để tháo gỡ
nhưng chưa biện pháp hữu hiệu. Tiếp đến kế hoạch 5 năm lần thứ hai
(1981-1985) nền kinh tế đứng trước bờ vực thẳm của một cuộc khủng hoảng
kinh tế trầm trọng.
- Sản xuất đình trệ trong tất cả các ngành : ng nghiệp, nông nghiệp,
dịch vụ… Nhiều công trình đang xây dựng bị đình lại vì không có vốn.
- Mất cân đối nghiêm trọng trong cán cân thương mại, nhập khẩu nhiều
(cả hàng tiêu dùng) trong khi xuất khẩu không đáng kể.
- Thất nghiệp lớn, bộ máy hành chính phình to, thừa biên chế 30%
- Lạm phát tăng nhanh, đầu năm 1990 tăng khoảng 30-50% ng năm,
cuối năm 1985 tăng lên 587,2%
- Kỷ cương xã hội bị xói mòn.
Khó khăn chồng chất, đời sống nhân dân đặc biệt nông thôn túng
thiếu. Giữa thập kỷ XX nước ta đứng trước cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài và
gay gắt chưa từng có.
Do chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp thiếu động lực bị
cứng kéo dài, một số địa phương đã sự tìm tòi, thí điểm, phá rào, làm
chui để tìm lối ra. duy đổi mới của Đảng đã bắt gặp đổi mới hành động của
nhân dân. Bắt đầu tự phát, dần dần trở thành quan điểm chính sách đổi
mới.
Thí điểm khoán hộ Vĩnh Phúc - sở thực tiễn của chỉ thị 100 của Ban
thư vào tháng 10-1981 và trở thành một hình thức tổ chức sản xuất mới trong
nông nghiệp nông thôn, được nông dân đồng tình, hưởng ứng. Kinh tế hộ phát
huy tác dụng, giải phóng sức sản xuất tạo ra nhiều sản phẩm. Cùng với sự thay
đổi cơ chế kinh tế, trong nông nghiệp một khối lượng sản phẩm hàng hóa, lương
6
thực lớn sản xuất ra, ngoài việc được tiêu dùng trong nước, còn xuất khẩu.
Trước đó, lương thực sự thiếu hụt trầm trọng, hàng năm phải kêu gọi viện trợ
từ bên ngoài. Kinh tế hộ phát triển hiện nay kinh tế trang trại ra đời, sức sản
xuất trong nông nghiệp, nông thôn đang được giải phóng góp phần vào sự
nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn.
Quá trình đổi mới nước ta từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng hội chnghĩa một tất yếu khách quan- đó
sự đòi hỏi thúc bách của cuộc sống : đời sống nhân dân khó khăn, sản xuất đình
trệ, lạm phát, thiếu việc làm, thâm hụt cán cân thanh toán, thâm hụt ngân sách
Nhà nước kéo theo các chỉ tiêu kinh tế bản quốc gia đều thấp dưới chỉ số an
toàn về quản lý kinh tế vĩ mô - sự đổi mới ở nước ta cũng phù hợp với diễn biến
của tình hình thế giới. Trong khi Liên một số nước hội chủ nghĩa
Đông Âu sụp đổ, bên cạnh sự tăng trưởng của các nước công nghiệp mới, đặc
biệt là các nước và các vùng lãnh thổ Đông Á nền kinh tế thị trường đã đặt ra
cho nước ta phải tự m kiếm một hình kinh tế mới. hình kinh tế thị
trường gắn với sự quản lý của Nhà nước phù hợp với đặc điểm Việt Nam.
Theo thời gian và diễn biến thực tế quá trình đổi mới, nhiều vấn đề lý luận
và thực tiễn ngày càng sáng rõ. Việc chuyển đổi nền kinh tế thị trường ở nước ta
sự phù hợp giữa yêu cầu chủ quan khách quan, quy luật vận động của sản
xuất và cuộc sống, phù hợp với diễn biến của tình hình trong và ngoài nước.
thông tin tài liệu
Từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, nền kinh tế nước ta đang từng bước hình thành các loại thị trường mới. Cùng với các thị trường thông thường như thị trường hàng hóa dịch vụ, các thị trường tài chính, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học va công nghệ đang được hình thành. Nhìn chung các loại thị trường này ở nước ta còn sơ khai, chưa hình thành đồng bộ xét về trình độ, phạm vi và sự phối hợp các yếu tố thị trường trong tổng thể toàn bộ hệ thống.
Mở rộng để xem thêm
tài liệu giúp tôi
Nếu bạn không tìm thấy tài liệu mình cần có thể gửi yêu cầu ở đây để chúng tôi tìm giúp bạn!
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×