DANH MỤC TÀI LIỆU
Tiểu luận:Nội dung, nhận định và phân tích triết học Nho giáo, học thuyết Platôn về ý niệm,tư tưởng triết học (T) Phật giáo, quan niệm Lão Tử về thế giới
Câu hỏi 1
Trình bày những nội dung của Triết học Nho giáo về thế giới. Phân tích những giá trị
và hạn chế của nó.
Trả lời:
Nho giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, dưới thời xuân thu, người
sáng lập Khổng Tử (551-479 trước CN). Đến thời Chiến Quốc, Nho giáo được Mạnh Tử
Tuân Tử hoàn thiện phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy vật duy tâm, trong đó
dòng Nho giáo Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một
số nước lân cận.
+ Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tluôn có những mâu thuẫn. Trong học
thuyết của Nho giáo, Khổng Tử thường nói đến Trời, đạo trời, mệnh trời. Tư tưởng của ông về các
lĩnh vực này, không rõ ràng là duy vật hay duy tâm. Mục đích của ông khi bàn đến các vấn đề trên
là làm chỗ dựa cho học thuyết và đạo lý của mình, để ông đi sâu vào các vấn đề chính trị - đạo đức
xã hội.
+ Một mặt, khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời, ông thừa nhận sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn vận động, biến hoá không phụ thuộc vào mệnh lệnh của trời.
Trời đối với Khổng Tử có chỗ như là một quy luật, là trật tự của vạn vật.
"Trời có nói gì đâu, bốn mùa vẫn thay đổi, trăm vật vẫn sinh trưởng", " cũng như dòng nước
chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không nghỉ".
Đây là tư tưởng biện chứng tự phát của ông.
+ Trong học thuyết của Nho giáo kế thừa tưởng thời Chu, khái niệm "trời" ý nghĩa
bậc nhất. Nhưng khi giảng giải đạo lý của mình, Khổng Tử lại không nói rõ ràng và có hệ thống.
Sau này quan niệm về trời đất đã lần lượt được các danh Nho đời Hán về sau bổ sung.
+ tưởng của Khổng Tử gộp trời đất muôn vật vào một thể Khổng Tử thường chú ý đến
tính chất động nhiều hơn tính chất tĩnh. Quan niệm về vấn đề này biểu hiện đầy đủ, ràng
bao quát bằng từ "Dịch". Dịchđổi, bao hàm cả ý nghĩa thay đổi, trao đổi, biến đổi. Nguyên
phép tắc của nó được ghi trong Kinh Dịch.
+ Khổng Tử cho rằng trời ý chí, thể chi phối vận mệnh của con người. Đó quan
điểm về "Thiên mệnh". Ông tin vào trụ quan "Dịch", cuộc vận hành biến hoá không ngừng
sâu kín, mầu nhiệm của trụ, con người không thể cưỡng nổi. Ông nói: "Than ôi, trời làm mất
đạo ta", "mắc tội với trời không thể cầu đâu thoát được". Ông cho rằng mỗi nhân, sự
sống - chết, phú quý hay nghèo hèn đều là do "Thiên mệnh" quy định. Phú quý không thể cầu mà
được, do vậy bất tất phải cầu. Tin vào "Thiên mệnh", Khổng Tử coi sợ "mệnh trời", hiểu biết
"mệnh trời" là một điều kiện tất yếu để trở thành con người hoàn thiện là người quân tử.
Đó là yếu tố duy tâm khách quan trong quan điểm của ông.
Tuy nhiên, Khổng Tử lại cho rằng con người bằng nỗ lực chủ quan của mình cũng thể
thay đổi được cái "Thiên tính" ban đầu. Ông nói, con người lúc sinh ra, cái "tính" trời phú cho
giống nhau nhưng trong quá trình tiếp xúc, học tập… làm cho họ khác nhau, kẻ trí,
người ngu ("Tính tương cận, Tập tương viễn"). Đây mặt tích cực, chỗ "thêm vào" của Khổng
Tử so với quan niệm "mệnh trời" trước đó.
+ Đối với quỷ thần, Khổng Tử tỏ ra thái độ hoài nghi về sự tồn tại của quỷ thần cho
nên một mặt ông chủ trương tôn kính, một mặt lại xa lánh và cảnh giác. Quan niệm quỷ thần của
ông tính chất lễ giáo hơn tôn giáo. Ông cho rằng quỷ thần do khí thiêng trong trời đất tạo
thành. Tuy nhiên, không thể nhìn thấy cũng như không nghe thấy, thể nghiệm mọi vật mà không
bỏ sót nhưng mọi người đều cung kính trang nghiêm để tế tự thì quỷ thần cả bên tả, bên hữu
mình. Mặt khác, ông lại cho rằng quỷ thần không có tác dụng chi phối cuộc sống con người, ông
mê tín quỷ thần: "kính nhi viễn chi".
Như vậy mội mặt Khổng Tử tuyên truyền sức mạnh của quỷ thần, nhưng mặt khác ông lại
nhấn mạnh vai trò quan trọng của hoạt động con người trong đời sống. Đây một bước tiến bộ,
một sự đổi mới về nội dung, quyền uy của trời", quỷ thần đã bị hạn chế một phần. Tóm lại,
học thuyết Nho giáo nói về tự nhiên không nhiều. Những người sáng lập Nho giáo thừa nhận
"thiên mệnh", nhưng đối với quỷ thần lại xa lánh, kính trọng. Lập trường của họ về vấn đề này
rất mâu thuẫn. Điều đó chứng tỏ tâm của họ muốn gạt bỏ quan niệm thần học thời Âu Chu
nhưng không gạt nổi. Quan niệm "thiên mệnh" của Khổng Tử được đời Hán Đổng Trọng Thư hệ
thống hoá, xây dựng thành nội dung triết học duy tâm trong hệ thống triết học của Hán Nho.
Câu hỏi 2:
Trình bày nội dung bản nhận định về giá trị hạn chế của quan niệm Nho
giáo về con người.
Trả lời:
Nho giáo về con người.
Nét nổi bật của triết học Trung Quốc cổ, trung đại vấn đề con người xây dựng con
người. Đã nhiều trường phái triết học Trung Quốc cổ, trung đại đưa ra các quan niệm khác
nhau về vấn đề này trong đó trường phái Nho giáo. Nho giáo một trong những trường phái
triết học lớn nhấtảnh hưởng sâu sắc nhất đến hội của Trung quốc thời cổ đại do Khổng
tử (551-479 TCN) sáng lập. Cũng như các trường phái triết học khác, khi tìm hiểu về con người,
Nho giáo tìm cách giải vấn đề bản chất con người mối quan hệ giữa con người đối với thế
giới xung quanh. Nội dung cơ bản của quan niệm Nho giáo về con người được cụ thể như sau:
- Nguồn gốc của con người: Không Tử cho rằng trời sinh ra con người và muôn vật.
- Vị trí và vai trò của con người trong mối quan hệ với trời, đất, con người và vạn vật
trong trụ. Nho giáo đã đặt con người lên một vị trí rất cao, coi con người do trời sinh ra
nhưng sau đó con người cùng với trời, đất ba ngôi tiêu biểu cho tất cả mọi vật trong thế giới
vật chất và tinh thần. Kinh dịch Thiên Hạ chỉ ra rằng: "Trời, Đất, người là tam tài". Lễ Ký, Thiên
Lễ Vận coi con người"cái đức của trời đất, sự tam hợp của âm dương, sự tụ hội của quỷ thần,
cái khí tinh tú của ngũ hành".
- Quan hệ giữa trời với người. Nho giáo quan niệm con người một bộ phận khăng
khít, hữu cơ trong hệ thống chỉnh thể thế giới và vũ trụ.
+ Khổng tử cho rằng mệnh trời coi mệnh trời chi phối cuộc sống hội, cuộc đời
của mỗi con người.
+ Mạnh Tử - một học trò nổi tiếng của ông cho rằng trời an bài địa vị hội của con
người .
+ Đồng Trọng Thư, đời Hán, nêu lên thuyết 'thiên nhân cảm ứng" cho rằng trời, người
thông cảm với nhau, trời chủ thể của việc người. Trong Kinh dịch nói "Trời, đất, muôn vật
là nhất thể", tức là con người có thể suy từ bản thân mà tìm hiểu được trời đất và muôn vật.
+ Đối lập với quan điểm "Thiên nhân cảm ứng" quan điểm "Thiên nhân bất tương
quan". Đại diện tiêu biểu của quan niệm này là Tuân Tử - một học trò khác của Không Tử. Tuân
Tử cho rằng đạo trời không quan hệ với đạo người. Trị, loạn không phải tại trời, đất Trời
không thể làm hại được người nếu ta luôn chăm lo phát triển nông nghiệp, biết chi dùng tiết
độ. Tư tưởng triết học của Tuân Tử thuộc chủ nghiã duy vật thô sơ.
- Bản tính con người
+ Khổng tử cho rằng "tính mỗi con người đều gần nhau, do tập tành và thói quen mới hóa
ra xa nhau ("Nhân chi tính bản thiện, tính tương cận, tập tương viễn" - Sách Luận Ngữ,
Dương Hóa, 2).
+ Mạnh Tử khẳng định bản tính con người vốn thiện. Không một người nào sinh ra
tự nhiên bất thiện. Sự khác nhau giữa con người với con vật, theo Mạnh Tử chỗ mỗi con
người đều phần quý trọng phần bỉ tiện, phần cao đại phần thấp hèn, nhỏ. Chính
phần quý trọng cao đại mớitính người, mớicái khác giữa người cầm thú. Đã người ai
cũng trong người cái mầm thiện, đó lòng trắc ẩn (thương xót), lòng tu (thẹn, ghét), lòng
từ nhượng (khiêm nhường), lòng thị phi (phải trái). Lòng trắc ẩn là đầu mối của nhân, lòng tu
đầu mối của nghĩa, lòng thị phi là đầu mối của trí. Nếu biết phát huy các đầu mối ấy thì con người
ngày càng mạnh, có đủ sức giữn bốn biển.
+ Tuân Tử cho rằng bản tính con người ác. Con người sinh ra hiếu lợi, thuận theo
tính đó dẫn đến tranh đoạt lẫn nhau nên không có từ nhượng; sinh ra là đố kỵ, thuận theo tính đó,
không lòng trung tính; sinh ra ham muốn, thuận theo tính đó thành dâm loạn, lễ nghĩa
không có. vậy, ông chủ trương phải chính sách uốn nắn sửa lại tính để không làm điều ác.
Muốn vậy phải giáo hóa, phải dùng lễ nghĩa, lễ nhạc để sửa tính ác thành tính thiện, để cái thiện
ngày càng được tích lũy tới khi hoàn hảo.
Quan niệm Nho giáo về con người ra đời trong thời đại phong kiến, mang sắc thái của
hội phong kiến nhưng đã góp phần củng cố trật tự hội trong thời đại đó. Ngày nay, chế độ
hội đã khác trước nhưng quan niệm Nho giáo về con người vẫn mang một giá trị lớn. Mặt giá trị
của chỗ khẳng định tính hướng thiện của con người, dẫn dắt, giáo hóa con người tìm
đến phần tốt đẹp loại bỏ những điều xấu. Theo quan niệm của Nho giáo muốn trở thành con
người tưởng phải bằng con đường tự rèn luyện, tự giáo dục, phải biết tu thân dưỡng tính,
khuyên con người luôn trau dồi đạo đức (Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín). Tuy nhiên, những giải về
con người trong triết học Nho giáo chủ yếu mang yếu tố duy tâm pha trộn tinh chất duy vật chất
phác trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội. Nó là sản phẩm của xã hội phong kiến và cũng là
nguyên nhân trì trệ của xã hội đó.
Câu hỏi 3:
Trình bày và đánh giá những nội dung cơ bản của quan niệm Lão Tử về thế giới.
Trả lời
Những quan niệm về thế giới của Lão Tử.
- bản nguyên của tr Đo, Đạo có tc tri , đất không biết n gọi, tạm gọi là
o", o" là q huyn diu, n tạm quan niệm "vô" và "hu".
"Vô" là nguyên lý vô hình: là gốc của trời đất
"Hữu" là nguyên lý hữu hình: là mẹ của vạn vật.
Như vậy Đạo sáng tạo ra vạn vật, vạn vật do Đạo sinh ra theo trình tự một sinh hai, hai
sinh ba, ba sinh ra vạn vật, Đạo là chủ thể của vạn vật, đạo là phép tắc của vạn vật.
- Đạo coi quy luật biến hoá tự thân của vạn vật biểu hiện quy luật ấy gọi Đức, mỗi
vật đều có đức mà đức của bất kỳ sự vật nào cũng từ Đạo sinh ra, là một phần của Đạo, Đức nuôi
lớn mỗi vật tuỳ theo Đạo.
Đạo đức của đạo gia, là một phạm trù vũ trụ quan khi giải thích về bản thể của vũ trụ, Lão
Tử sáng tạo ra phạm trù "Hữu", "Vô" nó đã trở thành phạm trù cơ bản từ Trung Quốc.
Như vậy:
- Vềtưởng bản thể luận, học thuyết của Đạo gia coi Bản nguyên vũ trụ là Đạo, Đạo tạo
ra vạn vật vậy phần nào làm lu mờ vai trò của thần thánh, của lực lượng siêu nhiên nhưng
còn mang tính trực quan, ước đoán, chưa chứng minh, chưa có luận điểm thuyết phục.
- Tư tưởng biện chứng:
+ Trong vạn vật không vật nào là không cõng âm, bồng dương.
+ Vũ trụ vận hành theo hai quy luật:
Quy luật bình quân luôn giữ cho vạn vật thăng bằng theo một trật tự điều hoà tự
nhiên, không cái thái quá, bất cập, cái khuyết sẽ được tìm đầy, cái cong
sẽ thẳng, cái gì cũ sẽ lại mới, cái gì ít sẽ được nhiều, cái nhiều sẽ mất.
Quy luật phán phục là sự phát triển cực điểm thì quay lại phương hướng cũ.
Quan niệm biên dịch của trụ sản phẩm của phương pháp quan sát tự nhiên, một
phương pháp chung để thu nhận trí thưc, kinh nghiệm, nhưng còn đơn giản và hạn chế.
- tưởng về nhận thức: Lão Tử đề cao duy trừu tượng, coi kinh việc nghiên cứu sự
vật hiện tượng cụ thể. Cho rằng "Không ra cửabiết cả thiên hạ, không cần nhòm qua khe mà
biết đạo trời" sự thực không thể phân biệt danh giới giữa nhận thức sự vật cụ thể nắm vững
quy luật chung.
- Tư tưởng về con người và xây dựng con người:
Đạo sinh ra vạn vật. Đạo sinh ra con người, xác định vị trí của con người trong mối quan
hệ trời, đất, con người vạn vật trong trụ. Đạo tự nhiên, Đạo sinh ra vạn vật trong đó
con người do đó ông khuyên con người sống hoạt động theo lẽ tự nhiên, thuần phác không
can thiệp, không làm gì trái với bản tính tự nhiên.
Như vậy Lão Tử coi trọng sự giáo hoá, phát triển của cái thiện Đạo gia cho rằng bản tính
của nhân loại khuynh hướng trở lại tự nhiên, Lão Tử khuyên mọi người phải trừ khử những
thái quá, nâng đỡ cái bất cập, hướng con người đến cuộc sống thanh cao, trong sạch, gìn giữ với
tự nhiên, tránh cuộc sống chạy theo nhu cầu vật chất.
Câu hỏi 4: Trình bày đánh giá những nội dung bản của quan niệm chính trị - hội
của Lão Tử.
Trả lời
* Giới thiệu về Lão Tử
- Lão Tử một nhân vật chính yếu trong triết học Trung Quốc, sự tồn tại của ông trong
lịch sử hiện vẫn đang còn được tranh cãi. Lão Tử còn gọi Lão Đạm, họ tên Nhĩ, người
nước sở sống vào thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
- Lão Tử tiếp nhận tưởng của Dương Chu của Âm Dương - Ngũ hành phép biện
chứng của Kinh Dịch để sáng lập lên Đạo gia.
- Tư tưởng triết học của Lão Tử được biểu lộ qua cuốn Đạo đức kinh, vỏn vẹn chỉnăm
ngàn chữ, thế đã gây ảnh hưởng sâu rộng đến hội Trung Hoa. Tựu chung, Đạo ý niệm
bản nhất quan trọng nhất trong cuốn Đạo Đức Kinh. Do đó, người ta gọi học thuyết của
Lão Tử Đạo học. Đạo Đức Kinh được coi cuốn truyện luận đáng chú ý nhất trong lịch sử
Triết học Trung Quốc, là một kiệt tác của ông.
* Nội dung chính
- tưởng triết học của Lão Tử hệ thống rất phong phú, trong ấy vừa đi sâu tìm hiểu
bản thể vũ trụ, vừa hệ thống, về học thuyết nhận thức luận vừa hàm chứa phong phú tư tưởng
biện chứng pháp về thực chất nó là một loại triết học chính trị có tính xã hội.
- Quan niệm về mặt chính trị của Lão Tử:
Bởi chán ghét thế cuộc nhiễu nhương, nhân sự chỉ đua đòi lợi lộc, Lão Tử chủ trương
chính trị "vô vi" mặc cho mọi việc thuận theo quy luật tự nhiên, điều này không nghĩa
người ta chỉ nên ngồi một chỗ không làm cả nghĩa ta phải tránh các mục đích
rệt, các ý chí mạnh hay thế chủ động. Người trị nước cần phải hành động theo lẽ tự nhiên thì sẽ
thành công. Nếu hiểu được quy luật thì chỉ cần theo dòng quy luật thì ắt sẽ đến nơi mình cần đến
mà không cần làm gì cả.
Lão Tử phủ định chế độ giai cấp "chia tách", phủ định quan hệ thống trị trên dưới hèn
sang. Ông chỉ trích "bọn mặc quần áo gấm vóc, mang thanh gươm sắc bén, ăn món ngon vật lạ
và tích luỹ của cải quá nhiều, đó là kẻ trộm cướp.
Ông tỏ rõ thái độ xa rời chính trị ngây thơ: "Chính phủ yên tĩnh vi thì nhân dân sẽ biến
ra chất phác; chính phủ tích cực làm việc thì nhân dân sẽ có tai hoạ" hoặc "Thánh nhân vô vị, do
đó họ sẽ không bị thất bại; cái gì cũng không có, đo dó họ không mất gì cả".
Thái độ trốn tránh hiện thực, phục cổ thủ tiêu đấu tranh của Lão Tử cũng thể hiện khá
rõ. Ông chủ trương "không chống lại cái xấu" bởi vì "Pháp luật càng nghiêm minh thì trộm cướp
càng lắm đòi hỏi giai cấp thống trị cũng như nhân dân phải tuân theo quy luật tự nhiên "vô vi
thái bình", trở lại cái xã hội trước khi xuấ thiện Nhà nước ông mơ ước đến một "nước nhỏ dân ít"
mọi người đều vui vẻ, ăn ngon mặc đẹp, hai nước láng giềng cùng trông thấy nhau, cùng nghe
tiếng gà gáy, chó sủa của nhau mà nhân dân hai nước đến già đến chết đều không cần qua lại với
nhau.
* Quan niệm về mặt xã hội:
- Ông chủ trương con người cần phải trở lại trạng thái tự nhiên chất phác của trẻ con, "cần
phải trái tim ngu". Ông chủ trương "học những người không học", cho rằng "vứt bỏ
thánh trí, nhân dân sẽ có lợi gấp trăm lần, vứt nhân bỏ nghĩa, nhân dân sẽ trở lại hiếu từ".
- Lão Tử phủ định mọi quan niệm luân lý, quan niệm tốt xấu và mọi thứ văn hoá tinh thần
của hội hiện thực trở lại với cái chất phác "vô danh", trở lại với cái ý thức của trẻ con
không phân biệt tốt xấu, trái phải. Từ đó ông cho rằng mọi sự sản xuất tinh thần, mọi văn hoá
tinh thần đều là "ý muốn thừa và hành vi vô dụng".
- tưởng phản kinh nghiệm, phản tri thức, Lão Tử viết: "Tuyệt học tư" (có bỏ học
mới hết ưu phiền), "Vi học nhật ích vi đạo nhật tổn" (càng học cho lắm càng hại cho việc
tu Đạo). "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri" (người có học vốn chẳng bao giờ nói, kẻ hay nói mới
là người không hiểu biết). Sở dĩ phải phản kinh nghiệm phải tri thức theo Lão Tử có hai lý do:
Một kinh nghiệm tri thức khiến cho người ta hay lo âu, cho nên bảo "Tuyệt học
tư", hai kinh nghiệm tri thức gây trở ngại cho việc tu Đạo, bởi lẽ hiểu biết chừng nào thì
càng thúc đẩy lòng ham muốn đòi hỏi của người ta đồng thời cũng dễ làm cho người ta nảy sinh
cảm giác bất mãn với hiện tại cho nên "học nhiên hậu tri bất túc".
- Tư tưởng "công thành phất cư", Lão Tử cho rằng mọi thành quả rất có thể đưa lại tai hoạ
cho con người. Lão Tử bảo: "Sinh nhi bất hữu, vi nhi bất thị, trường nhi bất tể, thi vi nguyên
đức" (sống mà không giữ của làm mà chẳng ỷ công, dù lớn cũng không đứng làm chủ tể, đó mới
cái đức nguyên vẹn) rằng "công toại thân tháoi, thiên chi đạo" (khi đã đạt tới thành quả rồi
thì rút lui ngay, đúng với lẽ trời) "vi giả bai chi, chấp giả thất chi" (kẻ ham làm sẽ gặp thất
bại, kẻ ôm giữ sẽ bị mất mát).
* Đánh giá:
- Tóm lại quan điểm chính trị - hội của Lão Tử: bản tính nhân loại hai khuynh
hướng "hữu vi" "vô vi" khuynh hướng trở về nguồn gốc để sống với tự nhiên, tức hợp thể
với đạo. vậy, Lão Tử đưa ra giải pháp cho các bậc tri nước "lấy vi xử sự, lấy bất
ngôn dạy đời. Để lập quan bình trong hội phải trừ khử những "thái quá" nâng đỡ cái "bất
cập", lấy "nhu nhược thắng cương thường", "lấy yếu thắng mạnh", tri túc" không 'cạnh tranh bạo
động" , "công thành thân thoái", "dĩ đức báo oan". Đó là quan điểm tiêu cực, bảo thủ. Vì vậy Lão
Tử đã gạt bỏ khái niệm "hữu vi" của Nho giáo, Mặc gia theo đuổi một thế giới vi, thanh tịnh
vô sự, vô dục.
- Ông tưởng chống hội đương thời. Thời Xuân Thu Chiến Quốc lúc Trung
Quốc bước vào giai đoạn hội biến thiên trong đại Đạo gia, đứng đầuLão Tử bài bác chống
phá trật tự xã hội hiện hữu bằng hành vi tích cực, hoặc tự đặt mình ra ngoài vònghội đó bằng
hành vi tiêu cực như đi ẩn náu, mai danh lánh nạn chẳng hạn ("Lão Tử bậc quân tử ẩn").
Xuyên qua lời nói và trước tức (như Đạo Đức Kinh) ta thấy Lão Tử luôn luôn giữ thái độ đả kích
tập tục chế độ hội đương thời, khiến cho tưởng hành vi của người, nhất nhất đều trái
ngược với tình trạng thực tế trong lúc đó.
- Tư tưởng chính trị - xã hội của Lão Tử có nhiều mặt hạn chế không tránh khỏi chủ nghĩa
duy tâm. Ông cho rằng "cái hình ảnh lớn nhất" "hình thái không hình thái, hình ảnh
không thực chất", muốn hiểu được phải vượt qua sự đối lập giữa chủ quan khách quan
để nhận thức, không thể nhận thức thông qua khái niệm ("Danh") được phải bằng phương
pháp tưởng tượng trực giác), ông phủ nhận cực đoan chân tương đối trong quá trình nhận
thức; ông hiểu y c cc đoan về tính quy định ln nhau giữa các sự vật không nhận thy
đưc nh biến chứng khuynh ớng phát trin trong quá tnh đấu tranh, chuyển hoá giữa c mặt
của s vt, ông ph đnh tri thức một cách cực đoan.
- Tuy nhiên tưởng về chính trị - hội của Lão Tử còn một loại "đạo thuật của bậc
vua chúa". tưởng của ông trở thành một thức sách lược quyền mưu của giai cấp thống trị
ảnh hưởng sâu xa đến chính trị chuyên chế Trung Quốc. Thí dụ như Lão Tử luân về "vô
vi"(không làm), "vô vi" mới có thể "vô bất vi" (không gì không làm). Các đế vương đầu đời Hán
rút từ bài học "vô vi" của Lão Tử, "vô vi" làm cương lĩnh trị quốc từ đó nắm được thế chủ
động sáng tạo ra cục diện thịnh hương đầu đời Hán. Sau này còn nhiều đế vương sau nhiều thời
gian đông loạn của hội đều áp dụng chính sách để cho dân chúng nghỉ ngơi. luận chủ đạo
của chính sách "dữ dân hữu tức" (nghỉ ngơi cùng dân) ấy đều xuất phát từ tư tưởng "vô vị nhị tự"
của Lão Tử.
- Tư tưởng của Lão Tử rất thích hợp với những ai là kẻ ưa sóng gần gũi thiên nhiên, lại
phần tương thông với đức tính khiêm nhường, dung thứ, nhẫn lại của N Nho. Do đó họ thích
sống vào nơi thâm sơn cùng cốc, tĩnh mịch, xa lánh bụi trần tựtay kiếm ăn, tự mình chữa bệnh,
người đời gọi là "tự tiên", mang sắc thái huyền bí như một tôn giáo.
Câu hỏi 5. Trình bày nội dung cơ bản nhận định về giá trị hạn chế củatưởng triết
học (T) Phật giáo?
1. Giới thịêu:
- Phật giáo ra đời vào thế kỷ VI trước CN. Đức Phật sống vào khoảng 25 thế kỷ trước tại
vùng Bắc ấn Độ. Ngài sinh ra là một vị hoàng tử của vương quốc thích ca tại chân núi Hy mã lạp
sơn, ngày nay thuộc nước Nepal. Mặc được sống trong nhung lụa nhưng ngài bắt đầu nhận
thức được bề mặt đen tối của cuộc đời, nỗi khổ đau của đồng loại và tính chất vô thường của mọi
sự việc.
- Trong một lần đi dạo trên phố ngài gặp 4 cảnh vật làm thay đổi duy của Ngài: gặp
một cụ già run rẩy, một người bệnh rên siết, một tử thi sinh thối một vị du tăng bình an tĩnh
lặng đã thôi thúc Ngàimột mình hy vọng đó là tìm ra con đường để tìm ra chân lý, thoát khỏi
hoạn khổ.
- Trong suốt cuộc đời Ngài du hành từ nơi này đến nơi khác giảng dạy về con đường giác
ngộ Ngài thành lập một giáo đoàn các vị tỳ kheotỳ kheo ni. Ngài được người đời tôn vinh
là Thích ca Mâu ni, là Buddba (Phật).
2. Nội dung chính
TQ:
- Phật là tên ghi âm Hán Việt của Buddba, nghĩa giác ngộ. Phật giáohình thức tổ
chức giáo đoàn được xây dựng trên một niềm tin từ đức Phật, tức từ biển lớn trí tuệ từ bi của
Siddbada. Kinh điển của Phật giáo gần kinh tạng, luật tạng và luận tạng.
- Phật giáo tin vào thuyết luân hồi nghiệp, cũng tìm ra con đường "giải thoát" ra khỏi
vòng luôn hồi. Trạng thái chấm dứt luân hồi nghiệp được gọi Niết bàn. Nhưng Phật giáo
khác các tôn giáo khác ở chúng sinh ở bất kỳ đẳng cấp nào cũng được "giải thoát".
- Phật giáo nhìn nhận TG tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự phân tích nhân quả. Theo
Phật giáo, nhân - quả chuỗi liên tục không gián đoạn không hỗn loạn,nghĩa nhân nào
quả ấy "nhân chuyển": kết quả của nguyên nhân nào đó sẽ nguyên nhân của một kết quả
khác.
+ Ban thể hiện: Bằng sự phân tích nhân quả, Phật giáo cho rằng không thể tìm ra nguyên
nhân đầu tiên cho trụ, nghĩa không một đấng Brahamas nào sáng tạo ra trụ. Phật
giáo cũng như nhận phạm trù Atmas. Phật giáo nêu lên quan điểm "vô ngã" (nghĩa không
cái tôi) quan điểm "vô thường" (bản chất của sự tồn tại của TG một dòng biến chuyển liên
tục).
- Quan điểm "vô ngã" cho rằng vạn vật trụ chỉ sự "giả hợp" do hội đủ nguyên
nhân thành ra "có" (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con người chẳng qua là do "ngũ
uẩn" (5 yếu tố) hội tụ lại là sắc (vật chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức
(ý thức).
Thức
Sắc
Hành Tưởng
Thụ
thông tin tài liệu
Nho giáo xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI trước công nguyên, dưới thời xuân thu, người sáng lập là Khổng Tử (551-479 trước CN). Đến thời Chiến Quốc, Nho giáo được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho giáo Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước lân cận. + Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có những mâu thuẫn. Trong học thuyết của Nho giáo, Khổng Tử thường nói đến Trời, đạo trời, mệnh trời. Tư tưởng của ông về các lĩnh vực này, không rõ ràng là duy vật hay duy tâm. Mục đích của ông khi bàn đến các vấn đề trên là làm chỗ dựa cho học thuyết và đạo lý của mình, để ông đi sâu vào các vấn đề chính trị - đạo đức xã hội.
Mở rộng để xem thêm
tài liệu giúp tôi
Nếu bạn không tìm thấy tài liệu mình cần có thể gửi yêu cầu ở đây để chúng tôi tìm giúp bạn!
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×