DANH MỤC TÀI LIỆU
Tư tưởng kinh tế chủ yếu
Vtháp Babel và ba cách tiếp cn ca tư tưởng kinh tế
đương đại
Từ cuối thập niên 60, quá trình quốc tế hóa toàn cầu hóa biến đổi một cách sâu sắc các nền
kinh tế quốc gia, thu hẹp lại biên độ thao tác và khả năng hành động của các Nhà nước và làm hiện
những giới hạn của Nhà nước phúc lợi. Sự sụp đổ các chế độ cộng sản dường như thừa nhận thắng
lợi của hệ thống thị trường. Với những thất bại, trong quá nhiều nước, của những chính sách phát
triển, thất nghiệp đại trà, những tiến bộ mới của nghèo khổ, những xâm phạm vào môi trường, thế
giới vào cuối thế kỷ XX mắc những căn bệnh khoa học kinh tế không biết chữa trị. Song điều này
không ngăn cản kinh tế học có vẻ bộ môn cấu trúc vững chắc nhất trong tất cả các khoa học
hội, tỏ ra có hiệu quả do việc nhân rộng những ứng dụng của nó vào nhiều lĩnh vực được giới hạn rõ
ràng1, có xu hướng thống trị và bành trướng2.
Không ngừng bxét lại đeo đuổi những tham vọng luôn đổi mới, thành quốc của các nhà kinh
tế đương đại một tháp Babel* thể được đặc trưng bằng ba khuôn mặt huyền thoại: Pénélope**,
Sisyphe*** và Icare****.
Trong tháp Babel: Các nhà kinh tế trong thế gii mi ca h
Cách đây một trăm năm mươi năm, một nhà kinh tế có thể đọc hết tất cả những tác phẩm về kinh
tế hay bàn về lĩnh vực này. Cách đây sáu mươi năm một nhà kinh tế có thể có một hiểu biết trực tiếp
về tất cả những công trình chínhcách đây ba mươi năm nhà kinh tế thể theo dõi những tiến bộ
chính đang diễn ra. Ngày nay, một nhà kinh tế phải đầu óc cởi mở phải kiên trì để thể theo
dõi những cuộc tranh luận chính liên quan đến (vài) lĩnh vực nghiên cứu của mình. Trong vòng hai thế
kỷ, kinh tế học, trước đây vốn là một lãnh địa nhỏ của tri thức con người, mà mỗi người biết mỗi ngọn
núi, mỗi thung lũng, mỗi con đường nay đã trở thành một thế giới đang bành trướng với những lục địa
hay ốc đảo nổi lên và những phong cảnh không ngừng thay đổi.
Bước ra khỏi Thế chiến II, khoa học kinh tế đã là vô cùng đa dạng, do tính đa dạng của những đối
tượng cách tiếp cận, của những quan niệm về quan hệ giữa thuyết hiện thực, của các
trường phái. Từ đó đến nay, những lĩnh vực được khoa học kinh tế bao phủ không ngừng được mở
rộng, những trường kinh tế ứng dụng được nhân lên gấp bội3, những trường phái chi nhánh của
các trường phái tăng mạnh: vô số diễn ngôn cùng chung sống, gặp gỡ nhau, đối đầu nhau, hòa lẫn và
ảnh
1 Về điểm này xem Baumol và Faulhaber, 1988.
2 Xem chương 7 trên đây.
Theo Thánh kinh, để trừng phạt những người con của Noé có ý đồ xây một cái tháp cao chọc trời ở Babylone, Chúa
đã đạp tan cuồng vọng này bằng cách để các bộ tộc nói những ngôn ngữ khác nhau (ND).
 Pénélope: vợ của Ulysse, nhân vật thần thoại Hi Lạp, trong suốt hai mươi năm chồng bôn ba vắng nhà, để từ chối
khéo những lời cầu hôn, nàng hứa sẽ lấy chồng mới khi dệt xong chiếc áo mỗi đêm đều tháo hết những đã đan
trong ngày (ND).
 Sisyphe: một ông vua bị đày xuống địa ngục mỗi ngày phải đẩy một tảng đá lên đỉnh núi, song chưa đến tới đỉnh đá
đã lăn xuống, ẩn dụ thường được dùng để nói đến thân phận con người (ND).
 Icare: nhân vật của thần thoại Hi Lạp, đã dùng lông chim ghép với nhau bằng sáp để bay thoát khỏi Mê cung nhưng
rơi xuống biển vì ánh sáng mặt trời làm chảy sáp (ND).
3 Xem Hutchinson, 1978, tr.319-20.
hưởng nhau. Hơn nữa, diễn ngôn kinh tế được thiết kế và phổ biến theo những sắc thái ngày càng đa
dạng, với những dị biệt rất lớn về mức độ tổng quát, mức độ xây dựng lí thuyết và hình thức hóa, theo
tính chất trung tâm hay bên lề của đối tượng được xem xét, theo tính chất chất lượng của những
thông tin thực nghiệm. Từ một quyển sách hay bài viết thuyết sẽ đ lại dấu ấn lâu dài đến một n
phẩm chẳng mang đến gì, từ một nghiên cứu thực nghiệm sẽ là đề tài phân tích và suy tưởng lâu dài
đến một nghiên cứu tả tình thế, qua đến những i tập kinh viện không thể tránh khỏi, màu sắc
những công trình kinh tế là vô cùng phong phú.
Tóm lại, khoa học kinh tế đương đại được đặc trưng bằng một động thái kép, như được minh
chứng qua việc số tạp chí được nhân lên nhiều: sự phình ra của quỹ bài được công bố 4 sự phân
mảnh của quỹ này. Điều này biến thế giới các nhà kinh tế thành một kiểu tháp Babel, trong đó, hiếm
người nào chịu nghe người khác khi chỉ một phần nhỏ của diễn ngôn phát ra được tiếp
nhận5; nhất khi những tri thức kinh tế tiếp tục được ra đời không chỉ trong hai ngôn ngữ đã được
chấp nhận từ sau thế chiến - tiếng Anh toán học6 - còn bằng nhiều ngôn ngữ quốc gia khác.
Thế nếu những nhà kinh tế thuộc những nền văn hóa không dùng tiếng Anh buộc phải theo dõi
những xuất bản bằng tiếng Anh, ngày càng nhiều nhà kinh tế anglo-saxon không biết đến một
cách có hệ thống những gì được viết trong một ngôn ngữ khác với tiếng mẹ đẻ của họ.
Trong bối cảnh đó, các nhà kinh tế có xu hướng hợp thành vô số những thế giới thu nhỏ, mỗi thế
giới dựa trên một cách tiếp cận chung hay một lĩnh vực nghiên cứu trên sự thừa nhận lẫn nhau,
nằm trong một phân khoa đại học hay một trung tâm nghiên cứu, với một tập san nghiên cứu
thường là một tạp chí với số lượng in thấp. Trong hướng ngược lại, một vài hội quốc gia (đứng đầu là
American Economic Association, với các tạp chí của hội này7) hay quốc tế lớn, một vài tạp chí lớn
vài nhà xuất bản chuyên lo phổ biến những tri thức không ngừng tiến hóa.
Như thế, khoa học kinh tế, trong tiến trình bành trướng của nó, luôn thường trực đổi mới. Nhưng
do tính mờ đục của các tri thức, do thời gian lịch sử, do đó do những thời gian phổ biến và hấp thụ và
từ đó những độ chênh lệch nên việc tổ chức lại thường xuyên này được tiến hành theo một cách
thể gọi ddạng không ăn khớp: chính thế những bài viết trong thập niên 30, được các
nhà kinh tế của một thế hệ mới khám phá ra lại trong những năm 60, trở thành những bài tham
chiếu bắt
4 Trong những bài tính hàn lâm được công bố, nổi bật sự yêu chuộng thuyết hình thức hóa: cho thời 1982-86,
những bài có những mô hình toán học mà không có dữ liệu nào chiếm 52% số bài được tạp chí Economic Journal đăng
42% của những bài đăng trong American Economic Review, và nhiều tạp chí kinh tế chỉ đăng toàn những bài kiểu
này; thế mà tỉ lệ này chỉ là 18% trong khoa học chính trị, 12% trong vật lí học, 1% trong xã hội học và 0% trong hóa học
(xem T. Morgan, “Theory versus Empiricism in Academic Economics”, Journal of Economic Perspective, vol. 2, n0 4,
1988, tr.163).
5 S. C. Kolm ước lượng những bài viết chính của khoa học kinh tế lên đến “hàng trăm ngàn trang, tăng theo nhịp độ cả
chục ngàn trang hằng năm nếu theo một định nghĩa cùng nghiêm ngặt của lĩnh vực bộ môn (và khoảng mười lần
hơn cho toàn bộ kinh văn)” (Philosophie de l’économie, Paris, Seuil, 1986, tr.30). Stigler ước lượng sản xuất hằng năm
bằng tiếng Anh của khoảng 6.000 nhà kinh tế thực thụ 800 quyển sách và 6.000 bài ông ước tính tốc độ gia tăng
của kho bài viết là 5% hằng năm, tức là cứ 14 năm lại nhân đôi; như thế kho bài này năm 1992 là mười sáu lần lớn hơn
kho này vào năm 1936, năm xuất bản của thuyết tng quát (“The Literature of Economics: The Case of the Kinded
Oligopoly Demand Curve”, Economic Inquiry, vol. 16, 1978, 185-204).
6 “Đó là một kinh văn mà một người không thể đọc nổi - những giới hạn do sức khỏe tâm thần áp đặt là ngặt nghèo hơn
những giới hạn của thời gian. Thật ra, số những nhà kinh tế đọc kinh văn này lẽ chỉ cao hơn một tí số những nhà
kinh tế đã viết ra kinh văn đó” (Stigler, sđd, tr.185).
7 American Economic Review, Journal of Economic Literature, Journal of Economic Perspectives.
buộc trong thập niên 70 và 80. Và không ai có thể đoan chắc là trong số những bài mới được công bố,
đâu là những bài sẽ được xem là những bài quy chiếu vào khoảng năm 2020.
Như vậy để nói rằng chúng tôi không có tham vọng trong chương cuối này, làm một tổng kết
những tri thức kinh tế đương đại. Chúng tôi đơn giản sẽ thử, trước sự phong phú hiện nay,
phác họa những nét lớn có ý nghĩa của những chuyển động đang diễn ra của tư tưởng kinh tế.
thông tin tài liệu
Bài viết này tổng kết những tri thức kinh tế đương đại, phác họa nét lớn có ý nghĩa của những chuyển động đang diễn ra của các tư tưởng kinh tế lớn.
Mở rộng để xem thêm
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×