Đồ Án Môn Học Xử Lý Nước Thải – Nước Cấp GVHD: Nguyễn Xuân Hoàn
Vỏ cùi: dày hơn vỏ gỗ chiếm 5 - 20% trọng lượng củ. Gồm các tế bào thành dày,
thành tế bào chủ yếu là cellulose, bên trong tế bào là các hạt tinh bột, các chất chứa
nitrogen và dịch bào. Trong dịch bào có tannin, sắc tố, độc tố, các enzyme… vỏ cùi có
nhiều tinh bột (5 – 8%) nên khi chế biến nếu tách đi thì tổn thất tinh bột trong củ, nếu
không tách thì nhiều chất dịch bào làm ảnh hưởng màu sắc của tinh bột.
Thịt củ khoai mì: là thành phần chủ yếu trong củ, chiếm 70 – 75% trọng lượng củ,
chứa 90 – 95% hàm lượng tinh bột trong củ, gồm các tế bào nhu mô thành mỏng là
chính, thành phần chủ yếu là cellulose, pentosan. Bên trong tế bào là các hạt tinh bột,
nguyên sinh chất, glucide hòa tan và nhiều nguyên tố vi lượng khác. Những tế bào xơ bên
ngoài thịt củ chứa nhiều tinh bột, càng về phía trong hàm lượng tinh bột giảm dần. Ngoài
các tế bào nhu mô còn có các tế bào thành cứng không chứa tinh bột, cấu tạo từ cellulose
nên cứng như gỗ gọi là sơ.
Lõi củ khoai mì: ở trung tâm dọc suốt cuống tới chuôi củ. Ở cuống lõi to nhất rồi
nhỏ dần xuống chuôi, chiếm 0,3 – 1% trọng lượng củ. Thành phần lõi là cellulose và
hemicellulose.
1.1.2. Phân loại khoai mì
Có nhiều cách phân loại khoai mì khác nhau, nhưng chủ yếu là được phân ra từ hai
loại: khoai mì đắng và khoai mì ngọt. Việc phân loại này phụ thuộc vào thành phần
cyanohydrin có trong củ mì.
Dựa vào thành phần Cyanohydryn có trong củ mì mà người ta phân nó ra làm 2 loại
Khoai mì đắng và khoai mì ngọt:
Khoai mì đắng (Manihot palmata Manihot aipr Pohl): Hàm lượng HCN hơn
50mg /kg củ Khoai mì đắng có thành phần tinh bột cao, sử dụng phổ biến làm
nguyên liệu cho các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, công nghiệp hoá
dược, công nghiệp giấy và nhiều ngành công nghiệp khác.
Nhóm Thực Hiện: 13 Trang
6