DANH MỤC TÀI LIỆU
Bản chất của tiền tệ
Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ
SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI GIÁ TRỊ
Hàng hoá sự thống nhất của hai thuộc tính giá trị sử dụng giá trị. Về mặt giá
trị sử dụng, tức hình thái tự nhiên của hàng hoá, ta thể nhận biết trực tiếp được bằng
các giác quan. Nhưng về mặt giá trị, tức hình thái hội của hàng hoá, không một
nguyên tử vật chất nào nên không thể cảm nhận trực tiếp được. Nó chỉ bộc lộ ra trong quá
trình trao đổi thông qua các hình thái biểu hiện của nó. Lịch sử của tiền tệ chính là lịch sử
phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao, từ hình thái giản đơn đến hình thái đầy đủ
nhất là tiền tệ.
- Hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên: đây là hình thái phôi thai của giá trị,
xuất hiện trong giai đoạn đầu của trao đổi hàng hoá, trao đổi mang tính chất ngẫu
nhiên, người ta trao đổi trực tiếp vật này lấy vật khác. Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc. Ở đây,
giá trị của vải được biểu hiện thóc. Còn thóc cái được dùng làm phương tiện để biểu
hiện giá trị của vải. Với thuộc tính tự nhiên của mình, thóc trở thành hiện thân giá trị của
vải. Sở dĩ như vậy vì bản thân thóc cũng có giá trị. Hàng hoá (vải) mà giá trị của nó được
biểu hiện một hàng hoá khác (thóc) thì gọi hình thái giá trị tương đối. Còn hàng hoá
(thóc) giá trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị của hàng hoá khác (vải) gọi hình thái
vật ngang giá. Hình thái vật ngang giá ba đặc điểm: giá trị sử dụng của trở thành
hình thức biểu hiện giá trị; lao động c thể trở thành hình thức biểu hiện lao động trừu
tượng; lao động nhân trở thành hình thức biểu hiện lao động hội. Hình thái giá trị
tương đối hình thái vật ngang giá hai mặt liên quan với nhau, không thể tách rời
nhau, đồng thời hai cực đối lập của một phương trình giá trị. Trong hình thái giá trị
giản đơn hay ngẫu nhiên thì tỷ lệ trao đổi chưa thể cố định.
- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng: khi lực lượng sản xuất phát triển hơn, sau
phân công lao động hội lần thứ nhất, chăn nuôi tách khỏi trồng trọt, trao đổi trở nên
thường xuyên hơn, một hàng hoá này thể quan hệ với nhiều hàng hoá khác. Tương
ứng với giai đoạn này là hình thái đầy đủ hay mở rộng.
Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc hoặc
= 2 con gà hoặc
= 0,1 chỉ vàng hoặc
= ...
Đây sự mở rộng hình thái giá trị giản đơn hay ngẫu nhiên. dụ trên, giá trị
của một mét vải được biểu hiện 10 kg thóc hoặc 2 con hoặc 0,1 chỉ vàng. Như vậy,
hình thái vật ngang giá đã được mở rộng ra nhiều hàng hoá khác nhau. Tuy nhiên, vẫn
là trao đổi trực tiếp, tỷ lệ trao đổi chưa cố định.
- Hình thái chung của giá trị: với s phát triển cao hơn nữa của lực lượng sản
xuất và phân công lao động xã hội, hàng hoá được đưa ra trao đổi thường xuyên, đa dạng
nhiều hơn. Nhu cầu trao đổi do đó trở nên phức tạp hơn, người vải muốn đổi thóc,
nhưng người có thóc lại không cần vải mà lại cần thứ khác. Vì thế, việc trao đổi trực tiếp
không còn thích hợp gây trở ngại cho trao đổi. Trong tình hình đó, người ta phải đi
con đường vòng, mang hàng hoá của mình đổi lấy thứ hàng hoá mà nó được nhiều người
ưa chuộng, rồi đem đổi lấy thứ hàng hoá mình cần. Khi vật trung gian trong trao đổi
được cố định lại ở thứ hàng hoá được nhiều người ưa chuộng, thì hình thái chung của giá
trị xuất hiện.
Ví dụ: 10 kg thóc
hoặc 2 con gà = 1 m vải
hoặc 0,1 chỉ vàng
....
Ở đây, tất cả các hàng hoá đều biểu hiện giá trị của mình ở cùng một thứ hàng hoá
đóng vai trò vật ngang giá chung. Tuy nhiên, vật ngang giá chung chưa ổn định một
thứ hàng hoá nào. Các địa phương khác nhau thì hàng hoá dùng làm vật ngang giá chung
cũng khác nhau.
- Hình thái tiền tệ: khi lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội phát triển
hơn nữa, sản xuất hàng hoá thị trường ngày càng mở rộng, thì tình trạng nhiều vật
ngang giá chung làm cho trao đổi giữa các địa phương vấp phải khó khăn, do đó đòi hỏi
khách quan phải hình thành vật ngang giá chung thống nhất. Khi vật ngang giá chung
được cố định lại ở một vật độc tôn và phổ biến thì xuất hiện hình thái tiền tệ của giá trị.
Ví dụ:
10 kg thóc
1 m vải = 0,1 chỉ vàng = vật ngang giá chung
2 con gà (Vàng trở thành tiền tệ).
....
Lúc đầu nhiều kim loại đóng vai trò tiền tệ, nhưng về sau được cố định lại
kim loại quý: vàng, bạc và cuối cùng là vàng. Sở dĩ bạc và vàng đóng vai trò tiền tệ là do
những ưu điểm của như: thuần nhất về chất, dễ chia nhỏ, không hỏng, với một
lượng và thể tích nhỏ nhưng chứa đựng một lượng giá trị lớn. Tiền tệ xuất hiện là kết quả
phát triển lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hoá, khi tiền tệ ra đời thì thế giới hàng hoá
được phân thành hai cực: một bên các hàng hoá thông thường; một bên hàng hoá
(vàng) đóng vai trò tiền tệ. Đến đây giá trị các hàng hoá đã một phương tiện biểu hiện
thống nhất. Tỷ lệ trao đổi được cố định lại.
BẢN CHẤT CỦA TIỀN TỆ
Vậy tiền tệ một hàng hoá đặc biệt được tách ra từ trong thế giới hàng hoá làm
vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hoá đem trao đổi; nó thể hiện lao động hội và
biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.
thông tin tài liệu
Lịch sử của tiền tệ là lịch sử phát triển các hình thái giá trị từ thấp đến cao, từ hình thái đơn giản đến hình thái đầy đủ nhất là tiền tệ.
Mở rộng để xem thêm
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×