DANH MỤC TÀI LIỆU
Luận văn: Qúa trình hình thành, giai đoạn và những phong cách điêu khắc của văn hóa ChămPa
MỞ ĐẦU
Người Chăm một dân tộc sinh sống lâu đời trên lãnh thổ Việt
Nam. Vương quốc Chăm Pa (còn gọi Chàm, Chiêm Thành) được
thành lập năm 605, từ vương quốc Lâm Ấp (Lin Yi) nới ra một số vùng
dọc bờ biển miền Trung Việt Nam, đi từ các tỉnh Quảng Bình, Quảng
Trị, qua Thừa Thiên-Huế Đà Nẵng, xuống đến Ninh Thuận, Bình
Thuận.
Trong lịch sử phát triển, họ đã sản sinh ra một nền văn hóa rực rỡ, độc
đáo. Nghệ thuật Chămpa nói chung nghệ thuật điêu khắc nói riêng một
trong những đỉnh cao về văn hóa, văn minh Chămpa, đồng thời đã góp
phần cống hiến những di sản quý báu trong kho tàng nghệ thuật Việt Nam và
nhân loại. Nghệ thuật kiến trúc điêu khắc Chăm đã thể hiện tài năng, trí
tuệ, sự sáng tạo mang bản sắc dân tộc Chăm
Nghiên cứu điêu khắc Chămpa ta sẽ thấy đó những nét đặc sắc
riêng biệt không thể gặp bất kỳ một nền văn hóa nào khác. giai
đoạn nào, phong cách nào, nền điêu khắc Champa cũng đều bộc lộ một
tính thẩm mỹ độc đáo, gây ấn tượng mạnh bằng một ngôn ngữ tạo
hình riêng.
Điêu khắc Chămpa một trong những bằng chứng vật chất, nguồn
tư liệu gốc có giá trị giúp chúng ta trong việc nghiên cứu văn hóa, văn minh
và lịch sử của vương quốc Chămpa cổ.
I - KHÁI QUÁT TIẾN TRÌNH NGHỆ THUẬT CHĂM PA.
Khi nhắc đến Chăm pa chúng ta đều không thể quên nói tới nét nghệ
thuật đặc sắc trong văn hóa Chăm pa.
Nghệ thuật Chăm pa gồm hai loại hình chủ yếu đókiến trúc và điêu
khắc, sự phát triễn của nghệ thuật Chăm pa có một tiến trình nhất định.
Người Chàm rất thích văn nghệ, đặc biệt ca múa nhạc. Thông qua
những hoạt động nghệ thuật như: múa, ca, các buổi lễ mừng, đã tạo được
cảm hứng cho các nghệ sáng tác những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc thể
hiện nét nhất các chùa chiền, các đền, các tháp…Họ đã để lại một
kho tàng thật vô cùng quý giá.
Một thành tựu to lớn nghệ thuật Chăm pa giai đọan này đạt được
đó sự xuất hiện của các tháp chàm cổ, những ngọn tháp uy nghi hùng
nhưng không kém phần duyên dáng, xây dựng bằng một thứ đất sét tinh
luyện riêng không cần chất kết dính. Loại gạch đó đã đảm bảo cho nhát đục
của nhà điêu khắc len lách vào những chi tiết tinh tế nhất gạch vẫn
không bị rạn vỡ. Cũng ít nơi trên Đông Nam Á những tác phẩm đầy sức
sống, biểu hiện nội tâm mãnh liệt yêu đời, yêu cuộc sống như trên đất cổ
Champa.
Nghệ thuật Chàm, tuy tiếp nhận sâu sắc ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn
Độ song trong quá trình tiến triển, do tính bản địa còn khá lớn nên nghệ
thuật Chăm pa đã tiếp thu một cách có chọn lọc để từ đó tạo nên một nét độc
đáo, một sức hấp dẫn kỳ lạ, làm nỗi bật sức sống mãnh liệt của con người,
với nội tâm lúc bay bỗng sảng khoái, lúc trầm tình ưu tư, lúc trăn trở day dứt
với những tác phẩm tiêu biểu được kể đến như: tựơng bán thân SiVa Trà
Kiệu ( Quảng Nam Đà Nẵng) vào thế kỷ 10, tượng chân dung Siva tháp
Mẫn ( ở Nghĩa Bình) vào thế kỷ 12, những vũ nữ ở Mỹ Sơn ( Quảng Nam
Đà Nẵng) vào thế kỷ 8, ở Trà Kiệu vào thế kỷ 10, …
Cùng với sự giao lưu với nghệ thuật Ấn Độ, nghệ thuật Chăm pa còn
sự giao lưu với nghệ thuật của: Môn, Khmer, lai, Việt, Đông Nam
Á. khi xem một tác phẩm nghệ thuật của Chăm pa chúng ta thể cảm
nhận một điều nó vừa quen thuộc, không có gì xa lạ “có mình ở trong đó mà
không phải mình “.
Mỗi tác phẩm đều biểu lộ tràn trề hoặcn đáo một tâm tư, cái tâm
tha thiết với cuộc sống mà nổi bật cái khoáng đạt rộng mở của tâm hồn
con người
Do trải qua nhiều thiên tai, chiến tranh, đặc biệt với hai cuộc kháng
chến xâm lược của Pháp nhất cơn sốt đồ cổ tràn lan đã làm cho
nhiều di tích và di vật Chàm bị phá hủy hoặc bị đánh cắp. Trong khoảng 250
di tích theo thống trước đó thì cho đến nay chỉ còn khoảng 20 công trình
còn đứng vững và được lưu giữ lại.
Như vậy với khái quát tiến trình nghệ thuật Chăm pa trên đây, chúng
ta thể thấy sự phát triễn của nghệ thuật Chăm pa luôn gắn liền vớ quá
trình phát triễn lịch sử của nó. Nghệ thuật Chăm pa đã để lại cho nền văn
hóa nước ta một kho tàng vô giá. Nó trở thành một nét độc đáo góp phần vào
nền văn hóa “ vô giá” của dân tộc Việt Nam
II- NHỮNG GIAI ĐOẠN VÀ PHONG CÁCH ĐIÊU KHẮC
Di vật điêu khắc chăm còn kại với chúng ta không nhiều ,do đó cũng
chỉ mới hình dung được một chặng đường từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XVI .
trên quá trình phát triển của nghệ thuật chàm. Trên chặng đường này
những cách sắp xếp định danh phong cách nhau giữa các nhà nghiên cứu
nghệ thuật chàm.
1.Mỹ Sơn (nửa đầu thế kỷ VIII):
Di vật cổ nhất còn lại ngày nay với chúng ta đài thờ tấm mi của
Mỹ Sơn E1. nữ trên thành bậc của đài thờ pử trong giây lát cao trào của
một điệu múa. Hai tay khoẻ khoắn dang rộng, mặt ngửng lên say sưa, ngực
ưỡn căng ra, thân rạp về trước, chân gập khuỷu dài hết cỡ. các bờ cong bờ
lượn của toàn bộ thể cố định lấy hình tượng trong giây phút sảng khoái.
Hai đường cong tạo thành bởi hai chân tay mở rộng táo bạo bố cụa cho cả
bức chạm. nữ giữa hoa lá. Một vẻ đẹp hoàn mỹ, một kiệt tác điêu khắc
chàm.
Những hình tượng khắc quanh đài thờ các tu balamôn đang
trầm tu,giảng đạo, múa hát, luyện thuốc… trong rừng sâu, hay các thú vật
cũng đều dặm một tính cách hiện thực tự nhiên sống động. đó một tinh
thần đặc trưng của điêu khắc Mỹ Sơn E1 này .
Mỹ Sơn E1 đã kết hợp tài tình các yếu tố lại với nhau thành một
phong cách độc đáo .
Có thể rút ra một vài đặc trưng về phong cách trang phục này là: chiếc
thắt lưng cao ngang ngực, dải thắt lưng dài buông thành nhiều nếp rũ loà xoà
xuống đến bắp chân .
Trang trí kiến trúc Mỹ Sơn E1 là những đặc điểm riêng, trang trí loáng
thoáng những vòng tràng hoa đơn, kép, chéo vuông, những tua hoa, hoa
trên các băng thường được bố trí theo típ: một đoá hoa to giữa, bốn
guột đầu dàn ra hai bên, mỗi típ cách nhau một hình thoi. Kiểu bố
cục này gần gũi với nghệ thuật Môn Dvati ở Nathom (Thái Lan).
Tuy số lượng tác phẩm thể hiện trong phong cách này không nhiều
nhưng phong cách Mỹ Sơn E1 một trong những phong cách đáng lưu ý
nhất bởi chất lượng điêu khắc cao cũng như những phẩm chất Chàm thực sự
của nó.
2. Hoà Lai
Những tác phẩm điêu khắc này thu thập được ngay tháp Hoà Lai,
với những đặc trưng nổi bật về nhân chủng như khuôn mặt hơi vuông, cánh
mũi hở, mồm rộng, môi dưới dày, hang ria mép đập, về trang phục trang
sức như dải lụa thắt lưng sọc dọc xoè rộng dưới, đôi hoa tai tròn to,vòng
đeo ở cánh tay tóc búi thành ba tầng thành hình chóp nón nhọn
Về trang trí kiến trúc, nổi lên hai đặc điểm chỉ thấy Hoà Lai, mặt
vòm trang trí rộng trang trí rậm rạp những cành lá móc câu lượn sóng.
Hai tác phẩm tiêu biểu tấm nhĩ Mỹ Sơn A1 tấm nhĩ
Bích La. Hình ảnh tương phản của người chắp cánh tay quỳ mọp dưới chân
thần càng tỏ cho ấn tượng thêm sâu đậm .
Tấ cả những tượng đồng mang ảnh hưởng Giava khá (từ cuối thế
kỷ VII đến đầu thế kỷ X) gắn với sự truyền đầu tiên của Phật giáo Đại
thừa vào Chămpa qua vương quốc Srivijaya.
các tháp Hòa Lai (tháp trung tâm tháp bắc), trong các ô cửa giả
hình các môn thần (dvarapala) lớn. Các môn thần này được tạc trong
thế núng nính cái đó gợi lại những tượng cùng loại Giava thế kỷ
VIII – IX. Ở những tượng Hòa Lai, các truyền thống y trang phục cũ vẫn tồn
tại – bằng chứng về sự kế tiếp của phong cách Mỹ Sơn E1.
3. Đồng Dương(cuối thế kỷ IX – đầu thế kỷ X)
Nói tới điêu khắc Chămpa thời kỳ này không thể không nhắc tới các
hiện vật tìm thấy thánh đường Phật giáo Đồng Dương. Không phải ngẫu
nhiên giai đoạn này giai đoạn này được đặt tên Đồng Dương. Đây
một giai đoạn tiêu biểu của nghệ thuật điêu khắc Chăm với sự đa dạng
phong phú của một loạt các hiện vật điêu khắc: ợng Phật, tượng các La
hán các tu sĩ, các tượng môn thần (dravapala) các tượng đứng
ngồi…, những hình phù điêu nổi trên khắp các mặt của các bàn thờ lớn
bằng đá, có cả tượng bằng đá và bằng đồng…
Ba đặc trưng của điêu khắc Đồng Dương: loại hình nhân chủng đậm
tính dân tộc, trang trí hoa hình sâu đo đồ trang sức rất nặng nề. Đặc
điểm nhân chủng chàm nổi rõ hơn ở bất kỳ giai đoạn nghệ thuật nào.
Kiểu trang trí sâu đo nối tiếp nhau kết hợp với móc câu cuộn
tròn tạo thành một lối trang trí riêng của Đồng Dương
Đồ trang sức Đồng Dương trông rất nặng nề, đặc biệt đối với đôi hoa
tai hình tròn hoặc có khi ba đầu rắn ở giữa.
Điêu khắc Đồng Dương đã để lại cho người xem những ấn tượng thật
mạnh mẽ, không giai đoạn điêu khắc nào biểu lộ mãnh liệt của nội tâm con
người bằng lúc này.
Nghệ thuật Đồng Dương chủ yếu mang tính chất phật giáo Đại Thừa.
đức phật ngồi hai chân buông thõng, hai tay úp lên đầu gối, thân thẳng, đầu
ngay, mắt đăm đăm nhìn thẳng vào cõi đâu xa, một thế hiếm thấy các
tượng phật Đông Nam Á.
thông tin tài liệu
Người Chăm là một dân tộc sinh sống lâu đời trên lãnh thổ Việt Nam. Vương quốc Chăm Pa (còn gọi là Chàm, Chiêm Thành) được thành lập năm 605, từ vương quốc Lâm Ấp (Lin Yi) nới ra một số vùng dọc bờ biển miền Trung Việt Nam, đi từ các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, qua Thừa Thiên-Huế và Đà Nẵng, xuống đến Ninh Thuận, Bình Thuận. Trong lịch sử phát triển, họ đã sản sinh ra một nền văn hóa rực rỡ, độc đáo. Nghệ thuật Chămpa nói chung và nghệ thuật điêu khắc nói riêng là một trong những đỉnh cao về văn hóa, văn minh Chămpa, đồng thời nó đã góp phần cống hiến những di sản quý báu trong kho tàng nghệ thuật Việt Nam và nhân loại. Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Chăm đã thể hiện tài năng, trí tuệ, sự sáng tạo mang bản sắc dân tộc Chăm Nghiên cứu điêu khắc Chămpa ta sẽ thấy ở đó những nét đặc sắc riêng biệt mà không thể gặp ở bất kỳ một nền văn hóa nào khác. Ở giai đoạn nào, phong cách nào, nền điêu khắc Champa cũng đều bộc lộ một cá tính thẩm mỹ độc đáo, gây ấn tượng mạnh bằng một ngôn ngữ tạo hình riêng.
Mở rộng để xem thêm
tài liệu giúp tôi
Nếu bạn không tìm thấy tài liệu mình cần có thể gửi yêu cầu ở đây để chúng tôi tìm giúp bạn!
xem nhiều trong tuần
yêu cầu tài liệu
Giúp bạn tìm tài liệu chưa có

LÝ THUYẾT TOÁN


×