Các tổ chức cộng đồng theo truyền thống của dân tộc Việt Nam rất
phong phú và đa dạng. Chủ yếu có 2 loại hình cộng đồng sau đây :
* Cộng đồng dân tộc (sắc tộc ): Hiện nước ta có 54 sắc tộc . Với mỗi
cộng đồng sắc tộc, đều có những đặc điểm riêng về văn hoá, tổ chức xã hội,
tiếng nói, tập quán truyền thống và hệ thống sản xuất .
* Cộng đồng làng, bản : Hiện cả nước có khoảng 50.000 làng, bản tập
hợp lại trong khoảng gần 9.000 xã (đơn vị hành chính thấp nhất ). Từ xa xưa,
mỗi làng bản được coi là một tổ chức cộng đồng chặt chẽ vói những đặc điểm
rất riêng:
- Làng, xóm ở miền xuôi là hình thức cộng đồng được hình thành. trên
cơ sở của phương thưc canh tác lúa nước, đã có nhiều thể chế tồn tại lâu đời
trong xã hội nônh thôn Việt Nam
- Thôn, bản ở miền núi là hình thức cộng đồng được hình thành ở miền
núi, trên cơ sở quan hệ sắc tộc, và nền kinh tế tự nhiên , tự cấp tự túc, có ảnh
hưởng sâu sắc đến việc quản lý, bảo vệ, xây dựng và phát triển rừng.
Ngoài 2 hình thức chủ yếu kể trên, còn có các loại hình cộng đồng khác
như: cộng đồng tôn giáo,cộng đồng họ tộc, cộng đồng giới tính…Một số
loại hình cộng đồng đã được phát triển thành những tổ chức như các đoàn thể,
có mục tiêu và điều lệ rõ ràng, hoạt động theo qui chế tổ chức chính trị xã hội
hay các tổ chức kinh tế. Một số đoàn thể đã tham gia và có nhiều đóng góp
cho việc phát triển lâm nghiệp tại các địa phương trong thời gian qua như: Hội
nông dân, đoàn thanh niên, họi phụ nữ…
1.2. Khái niệm về quản lý rừng cộng đồng
Quản lý rừng cộng đồng là hình thức quản lý truyền thống ở các khu
vực miền núi Việt Nam từ trước đây. Các cộng đồng dân tộc Việt Nam với các
quy mô khác nhau: Bộ tộc, dòng họ, thôn, bản…đã giữ một vai trò quan trọng
vừa là người quản lý, bảo vệ rừng, vừa là người sử dụng tài nguyên rừng một
cách hợp lý, theo qui ước cộng đồng. Đồng bào dân tộc đă sử dụng nguồn tài
nguyên rừng để phục vụ cuộc sống của họ: Lấy gỗ, tre, nứa làm nhà, lấy củi