Payload: Như đã nói, payload này thường là malcode của một virus, được
sử dụng để vô hiệu hóa các chức năng của máy tính và phá hủy dữ liệu.
Một số mẫu virus máy tính gần đây gồm W32.Sens.A, W32.Sality.AM, và
W32.Dizan.F. Hầu hết những phần mềm chống virus tốt sẽ gỡ bỏ virus dựa trên
file dữ liệu virus của mình.
2. Sâu (Worm)
Sâu máy tính tinh vi hơn nhiều so với virus. Chúng có thể tự sao chép mà không
cần tới can thiệp của người dùng. Malware sẽ giống sâu hơn virus nếu sử dụng
Internet để phát tán. Những thành phần chính của sâu bao gồm:
Penetration tool: Là malcode khai thác những lỗ hổng trên máy tính của
nạn nhân để dành quyền truy cập.
Installer: Công cụ thâm nhập giúp sâu máy tính vượt qua hệ thống phòng
thủ đầu tiên. Lúc đó, installer sẽ tiếp nhận và chuyển thành phần chính của
malcode vào máy tính của nạn nhân.
Discovery tool: Khi đã xâm nhập vào máy, sâu sử dụng cách thức để truy
lục những máy tính khác trên mạng, gồm địa chỉ email, danh sách máy chủ
và các truy vấn DNS.
Scanner: Sâu sử dụng một công cụ kiểm tra để xác định những máy tính
mục tiêu mới trong penetration tool có lỗ hổng để khai thác.
Payload: Malcode tồn tại trên mỗi máy tính của nạn nhân. Những malcode
này có thể là bất cứ thứ gì, từ một ứng dụng truy cập từ xa đến một key
logger được dùng để đánh cắp tên đăng nhập và mật khẩu của người dùng.
Thật không may loại malware này lại sinh sôi rất nhanh. Khởi đầu với sâu Morris
vào năm 1988 và hiện nay là sâu Conficker. Hầu hết sâu máy tính có thể gỡ bỏ
bằng chương trình quét malware.
3. Backdoor
Backdoor giống với những chương trình truy cập từ xa mà chúng ta thường sử
dụng. Chúng được coi là malware nếu cài đặt mà không có sự cho phép, đây chính
xác là những gì mà hacker muốn, theo các phương thức sau: